- Tổng Quan
- Nghi Thức Sám Hối
- Ghi Chú
- Phẩm 1: Mở Đầu Pháp Thọai
- Phẩm 2: Thọ Lượng Thế Tôn
- Phẩm 3: Phân Biệt Ba Thân
- Phẩm 4: Âm Thanh Trống Vàng
- Phẩm 5: Diệt Trừ Nghiệp Chướng
- Phẩm 6: Minh Chú Tịnh Địa
- Phẩm 7: Hoa Sen Ca Tụng
- Phẩm 8: Minh Chú Kim Thắng
- Phẩm 9: Trùng Tuyên Về Không
- Phẩm 10: Mãn Nguyện Vì Không
- Phẩm 11: Thiên Vương Quan Sát
- Phẩm 12: Thiên Vương Hộ Quốc
- Phẩm 13: Minh Chú Ly Nhiễm
- Phẩm 14: Ngọc Báu Như Ý
- Phẩm 15: Đại Biện Thiên Nữ
- Phẩm 16: Cát Tường Thiên Nữ
- Phẩm 17: Tăng Trưởng Tài Vật
- Phẩm 18: Kiên Lao Địa Thần
- Phẩm 19: Dược Xoa Đại Tướng
- Phẩm 20: Vương Pháp Chính Luận
- Phẩm 21: Thiện Sinh Luân Vương
- Phẩm 22: Tám Bộ Hộ Trì
- Phẩm 23: Thọ Ký Thành Phật
- Phẩm 24: Chữa Trị Bịnh Khổ
- Phẩm 25: Truyện Của Lưu Thủy
- Phẩm 26: Xả Bỏ Thân Mạng
- Phẩm 27: Bồ Tát Tán Dương
- Phẩm 28: Diệu Tràng Tán Dương
- Phẩm 29: Thọ Thần Tán Dương
- Phẩm 30: Biện Tài Tán Dương
- Phẩm 31: Ký Thác Kinh Vua
KINH KIM QUANG
MINH
(KINH ÁNH SÁNG HOÀNG KIM)
Hoà Thượng Thích Trí Quang Dịch Giải
Bản Hoa Dịch của Ngài Nghĩa Tịnh
Phẩm 2: Thọ Lượng Thế Tôn
Trong thành Vương xá có vị bồ tát tên Diệu tràng (3) , đã ở nơi quá khứ vô lượng chư Phật phụng sự, hiến cúng, trồng các thiện căn. Bấy giờ bồ tát Diệu tràng một mình ở chỗ thanh vắng, nghĩ rằng, vì lý do nào mà đức Thích ca thế tôn thọ lượng ngắn ngủi, chỉ tám mươi năm. Lại nghĩ, như đức Thế tôn dạy, có hai lý do được thọ lượng lâu dài. Hai lý do ấy là gì, một là không hại sinh mạng, hai là hiến cho ẩm thực. Mà đức Thích ca thế tôn thì đã vô số đại kiếp không hại sinh mạng, làm mười thiện nghiệp; lại thường đem ẩm thực hiến cho chúng sinh đói khát, thậm chí máu thịt xương tủy của mình cũng đem mà cho, huống chỉ ẩm thực.
Khi bồ tát Diệu tràng nghĩ về đức Thế tôn như vậy thì, do uy lực của Ngài, phòng ông bỗng nhiên rộng lớn, đẹp và sạch, với những thứ ngọc đế thanh lưu ly màu sắc xen nhau mà trang hoàng, in như tịnh độ của chư Phật. Có hơi thơm tuyệt diệu, quá hơn hương liệu chư thiên, thơm tho khắp cả. Bốn phía phòng ấy có bốn bảo tọa sư tử, thượng hạng và tinh hảo, được tạo thành bởi bốn loại ngọc. Ở trên bảo tọa trải vải quí của chư thiên. Bốn bảo tọa đều xuất hiện hoa sen tuyệt diệu, trang sức bằng những thứ ngọc quí, tầm cỡ tương xứng với các đức Thế tôn. Trên bốn hoa sen có bốn đức Thế tôn: Bất động thế tôn ở phương đông, Bảo tướng thế tôn ở phương nam, Vô lượng thọ thế tôn ở phương tây, Thiên cổ âm thế tôn ở phương bắc. Mỗi đức Thế tôn cùng ngồi xếp bằng trên một bảo tọa, phóng ánh sáng lớn chiếu rực cả thành Vương xá, cả đại thiên thế giới, cả mười phương hằng sa cõi Phật. Thiên hoa mưa xuống, thiên nhạc tấu lên. Bấy giờ trong Thiệm bộ châu và đại thiên thế giới, bao nhiêu chúng sinh đều nhờ uy lực của chư vị Thế tôn mà hưởng được cái vui siêu việt, tinh tế, không thiếu gì cả. Ai cơ thể bất toàn thì toàn hảo. Ai mù thì thấy đuợc. Ai điếc thì nghe được. Ai ngọng thì nói được. Ai ngu thì khôn. Ai điên thì tỉnh. Ai rách rưới thì được y phục. Ai bị khinh ghét thì được kính trọng. Ai dơ bẩn thì được thanh khiết. Thế giới này, bao chuyện hiếm có đều diễn ra.
Bấy giờ bồ tát Diệu tràng thấy bốn đức Thế tôn và bao điều hiếm có thì vui mừng hết sức, chắp tay, nhất tâm, chiêm ngưỡng tướng hảo thù thắng của các Ngài. Bồ tát lại nghĩ đến công đức vô lượng của đức Thích ca thế tôn, chỉ hoài nghi về thọ lượng của Ngài, rằng tại sao Thế tôn công đức vô lượng mà thọ lượng ngắn ngủi, chỉ có tám thập kỷ? Lúc ấy bốn đức Thế tôn bảo bồ tát Diệu tràng, thiện nam tử, ông không nên nghĩ Thích ca như lai thọ lượng dài ngắn. Tại sao? Vì, thiện nam tử, chư Như lai không thấy chư thiên, nhân loại, phạn vương, ma vương, sa môn, bà la môn, tất cả nhân loại và phi nhân loại, có ai tính mà biết được giới hạn thọ lượng của đức Thích ca như lai, trừ ra các bậc Vô thượng biến giác. Bốn đức Thế tôn muốn nói thọ lượng của đức Thích ca thế tôn. Do uy lực của các Ngài, chư thiên cõi Dục và cõi Sắc, tám bộ long thần, vô số bồ tát cùng đến vân tập trong cái phòng tuyệt diệu của bồ tát Diệu tràng. Đối với đại hội như vậy, bốn đức Thế tôn muốn hiển thị thọ lượng của đức Thích ca thế tôn nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
(1) Biết được
số giọt
nước các biển
cả,
mà không thể
biết
thọ lượng Thích
tôn.
(2) Nghiền núi Tu
di
thành những hạt
cải,
số hạt cải
ấy
có thể biết
được,
mà không biết
được
thọ lượng Thích
tôn.
(3) Có thể biết
được
số bụi đại
địa,
không thể đếm
biết
thọ lượng Thích
tôn.
(4) Lường tính
không gian
biết được biên
tế,
mà không lường
nổi
thọ lượng Thích
tôn.
(5) Nếu ai sống
đến
trăm ngàn đời
kiếp,
tận lực thường
xuyên
dùng toán mà
tính,
cũng không biết
được
thọ lượng Thích
tôn.
(6) Không hại sinh
mạng,
hiến cho ẩm
thực,
chính do hai
loại
diệu nhân như
vậy
làm cho đạt
được
thọ lượng lâu
dài.
(7) Do đó thọ lượng
của bậc Đại
giác
khó có người
nào
biết được số
lượng.
Tựa như thì gian
(4)
vô cùng vô
tận,
thọ lượng Thích
tôn
cũng y như
thế.
(8) Diệu tràng,
nên biết:
không nên hoài
nghi;
thọ lượng các
đấng
Siêu việt bậc
nhất,
không một người nào
biết được số
lượng.
Lúc ấy bồ tát Diệu
tràng nghe bốn đức Thế tôn nói thọ lượng bất tận của đức Thích ca thế tôn, thì
tác bạch như vầy, kính bạch chư vị Thế tôn, tại sao đức Thích ca thế tôn thị
hiện thọ lượng ngắn ngủi? Bốn đức Thế tôn dạy bồ tát Diệu tràng, thiện nam tử,
khi đức Thích ca thế tôn xuất hiện trong giai đoạn đủ cả năm thứ dơ bẩn, thì
thọ lượng nhân loại chỉ trên dưới bách kỷ, bẩm tính thấp hèn, thiện căn kém
mỏng, không tin hiểu gì. Nhân loại như vậy đa số quan niệm bản ngã, quan niệm
sinh thể, quan niệm linh hồn; quan niệm tồn tại -- những quan niệm bồi dưỡng,
quan niệm sai lầm -- quan niệm bản ngã và sở hữu của bản ngã, quan niệm vĩnh
hằng, quan niệm hư vô (5) . Để lợi ích cho những kẻ dị sinh và dị giáo như vậy,
làm cho họ phát sinh lý giải chính xác, mau chóng đạt đến tuệ giác tối thượng,
nên đức Thích ca như lai thị hiện thọ lượng ngắn ngủi. Thiện nam tử, đức Thích
ca như lai muốn làm cho chúng sinh thấy Ngài niết bàn để sinh ý tưởng khó gặp,
ý tưởng lo lắng; đối với kinh pháp Ngài nói, họ lo cấp tốc tiếp nhận, ghi nhớ,
cứu xét, tụng thuộc cho thông suốt, đem nói cho người, không hề khinh thường.
Vì muốn như vậy mà đức Thích ca như lai thị hiện thọ lượng ngắn ngủi. Lý do ở
đây là, chúng sinh như đã nói ở trước, nếu thấy đức Thích ca như lai không nhập
niết bàn, thì không có ý tưởng kính trọng, khó gặp; đối với kinh pháp sâu xa mà
Ngài tuyên thuyết cũng không lo tiếp nhận, ghi nhớ, cứu xét, tụng thuộc cho
thông suốt, và đem nói cho người. Tại sao như vậy, vì thường xuyên thấy Phật thì
không kính trọng nữa. Thiện nam tử, ví như có kẻ thấy cha mẹ mình có lắm của
cải vàng ngọc thì, đối với tài sản ấy, người con không sinh ý tưởng hiếm có,
khó gặp, tại sao, vì đối với cha mẹ, và tài sản của cha mẹ, người con có ý
tưởng còn mãi. Thiện nam tử, chúng sinh kia cũng vậy, nếu thấy đức Thích ca như
lai không nhập niết bàn thì không sinh ý tưởng hiếm có, khó gặp, lý do là vì
thường thấy. Thiện nam tử, ví như có kẻ cha mẹ nghèo nàn, thiếu thốn tài sản,
người con nghèo thiếu đến cung vua chúa hay đến dinh đại thần, thấy tài sản
tràn đầy, thì sinh ý tưởng hiếm có, khó gặp. Người con này muốn có tài sản nên
làm lụng đủ cách, siêng năng không nhác, lý do là để hết nghèo nàn, hưởng an
lạc. Thiện nam tử, chúng sinh kia cũng vậy, nếu thấy đức Thích ca như lai nhập
vào niết bàn mới có ý tưởng khó gặp, ý tưởng lo lắng. Họ nghĩ, vô số kiếp Phật
mới xuất hiện, như hoa ô đàm lâu lắm mới có một lần. Nghĩ vậy nên họ có ý tưởng
hiếm có, ý tưởng khó gặp. Và gặp Phật thì tôn kính, tin tưởng, nghe Ngài thuyết
pháp thì có ý tưởng nói thật, bao nhiêu kinh pháp đều tiếp nhận, ghi nhớ, chớ
không khinh thường. Thiện nam tử, vì lý do đã nói trên đây mà đức Thích ca như
lai không ở đời lâu dài, niết bàn mau chóng. Thiện nam tử, như thế đó, chư vị
Như lai áp dụng phương tiện khéo léo mà tác thành chúng sinh. Nói như vậy rồi,
bốn đức Thế tôn bỗng nhiên ẩn mất.
Bấy giờ bồ tát Diệu tràng cùng với vô lượng bồ tát, và vô số chúng sinh, cùng nhau đi đến trên đỉnh Thứu phong, chỗ đức Thích ca thế tôn, đảnh lễ ngang chân Ngài rồi đứng qua một bên. Bồ tát Diệu tràng đem sự thể trên đây trình bạch đầy đủ với đức Thế tôn. Lúc ấy bốn đức Thế tôn cũng đã đến Thứu phong, chỗ đức Thích ca thế tôn. Tùy phương hướng của mình, các Ngài đến bảo tọa mà ngồi, rồi bảo vị bồ tát thị giả, rằng thiện nam tử, ông hãy đến chỗ đức Thích ca như lai, thay lời Như lailời Như lai mà vấn an Ngài, rằng Ngài ít bịnh ít phiền, cử động linh hoạt, sống yên vui chăng. Ông lại tác bạch như vầy: Lành thay đức Thế tôn, xin Ngài nay có thể tuyên thuyết kinh Ánh sáng hoàng kim, pháp yếu cực sâu, để lợi ích chúng sinh, loại bỏ đói khát, làm cho yên vui. Đức Thế tôn của con xin tùy hỷ việc này. Các vị thị giả cùng đến chỗ đức Thích ca thế tôn, đảnh lễ hai chân của Ngài, rồi đứng qua một bên, cùng tác bạch rằng, bạch đức Thế tôn, đức Thầy trời người của chúng con vấn an vô lượng, rằng Ngài ít bịnh ít phiền, cử động linh hoạt, sống yên vui chăng. Các vị thị giả lại tác bạch như vầy: Lành thay đức Thế tôn, xin Ngài nay có thể tuyên thuyết kinh Ánh sáng hoàng kim, pháp yếu cực sâu, để lợi ích chúng sinh, loại bỏ đói khát, làm cho yên vui. Đức Thầy trời người của chúng con xin tùy hỷ việc này. Bấy giờ đức Thích ca thế tôn, bậc Như lai, bậc ứng cúng, bậc Chánh đẳng giác, nói với các vị bồ tát thị giả, rằng lành thay, bốn đức Nha lai muốn làm cho chúng sinh lợi ích yên vui mà khuyến cáo Như lai tuyên dương pháp yếu! Ngài nói mấy lời chỉnh cú sau đây.
(9) Như lai
thường trú
trên đỉnh Thứu
phong,
tuyên thuyết kinh
bảo
Ánh sáng hoàng
kim;
nhưng vì tác
thành
cho bao chúng
sinh,
Như lai thị
hiện
nhập vào niết
bàn.
(10) Chúng sinh
phàm phu
quan niệm lầm
lẫn,
nên không tin
được
lời Như lai
nói;
chính vì tác
thành
chúng sinh như
vậy,
Như lai thị
hiện
nhập vào niết
bàn.
Bấy giờ trong đại
hội có một vị bà la môn họ Kiều trần như, tên Pháp sư thọ ký, cùng vô số bà la
môn hiến cúng đức Thế tôn rồi, nghe Ngài nói nhập vào niết bàn, thì nước mắt
nước mũi xen nhau chảy ra, bước tới lạy chân Ngài, thưa rằng, bạch đức Thế tôn,
nếu thật đức Thế tôn có lòng đại từ bi đối với chúng sinh, thương xót ích lợi,
làm cho yên vui, in như cha mẹ không ai sánh bằng; Ngài làm chỗ nương tựa cho
cả thế giới, in như vầng thái âm tròn đầy; Ngài soi sáng bằng tuệ giác lớn lao,
in như vầng thái dương mới mọc; Ngài nhìn khắp cả, thương tưởng đồng đều, coi
ai cũng như tôn giả La hô la -- thì con xin Ngài ban cho con một điều ước
nguyện. Nghe thưa như vậy, đức Thế tôn chỉ im lặng. Nhưng do uy lực của Ngài,
trong đại hội có một vị đồng tử Lê xa tì tên Ai cũng thích nhìn, nói với bà la
môn Kiều trần như, rằng thưa đại bà la môn, ông muốn xin đức Thế tôn điều ước
nguyện gì, tôi có thể thỏa mãn cho ông. Bà la môn Kiều trần như nói, đồng tử,
tôi muốn hiến cúng (6) đức Thế tôn tối thượng, nên cầu xin Ngài cho tôi một
chút xá lợi chỉ bằng hạt cải. Tại sao tôi cầu xin như vậy? Vì tôi từng nghe
nói, nếu thiện nam hay thiện nữ nào được xá lợi của đức Thế tôn chỉ bằng hạt
cải thôi, để tôn kính hiến cúng, thì sẽ sinh lên tầng trời Đao lợi mà làm Đế
thích. Nghe như vậy, đồng tử Lê xa tì nói với bà la môn, nếu ông muốn sinh lên
Đao lợi hưởng thụ quả báo hơn người, thì hãy dốc lòng mà nghe kinh Ánh sáng
hoàng kim. Kinh này hơn hết các kinh khác, khó lý giải, khó hội nhập. Thanh văn
Độc giác không thể hiểu nổi. Kinh này sinh ra vô biên quả báo phước đức, cho
đến hoàn thành tuệ giác vô thượng. Tôi nay chỉ nói cho ông vắn tắt như vậy. Bà
la môn nói, lành thay đồng tử; nhưng kinh Ánh sáng hoàng kim cực sâu, tối
thượng, khó lý giải, khó hội nhập, Thanh văn Độc giác không thể hiểu nổi, huống
chi chúng tôi, những kẻ biên dã, trí tuệ kém cỏi, làm sao hiểu được. Do vậy,
hôm nay tôi chỉ cầu xin xá lợi của đức Thế tôn bằng hạt cải thôi, để đem về bản
xứ, tôn trí vào trong hộp ngọc, tôn kính hiến cúng. Thì mạng chung rồi được làm
Đế thích, thường hưởng yên vui. Tại sao đồng tử không thể từ đấng Đủ sự sáng
cầu xin cho tôi môt điều ước nguyện như vậy? Bà la môn nói rồi, đồng tử Lê xa
tì liền nói cho ông nghe những lời chỉnh cú sau đây.
(11) Dòng nước
chảy xiết
của sông Hằng
hà
có thể mọc
lên
hoa sen bạch
liên;
loài chim màu
vàng
có thể thành
trắng,
hay chim màu
đen
có thể thành
đỏ;
(12) hoặc cây
thiệm bộ
sinh trái đa
la,
cây khát thụ
la
sinh trái yêm
la;
(13) sự vật hiếm
có
có thể chuyển
biến,
xá lợi Thế
tôn
cũng không thể
có.
(14) Giả sử lông
rùa
dệt thành áo
đẹp,
áo đó có thể
mặc vào mùa
lạnh,
thì mới tìm
được
xá lợi Thế
tôn.
(15) Giả sử chân
muỗi
đỡ được lầu
đài
vô cùng kiên
cố
không thể lay
động,
thì mới tìm
được
xá lợi Thế
tôn.
(16) Giả sử miệng
đỉa
mọc lên răng
trắng
đã dài lại
lớn
sắc như mũi
nhọn,
thì mới tìm
được
xá lợi Thế
tôn.
(17) Giả sử sừng
thỏ
làm thành cái
thang
và leo thang
ấy
lên đến cung
trời,
thì mới tìm
được
xá lợi Thế
tôn.
(18) Chuột leo
thang ấy
lên đánh tu
la
che khuất mặt trăng
ở trong không
gian,
thì mới tìm
được
xá lợi Thế
tôn.
(19) Ruồi uống
rượu say
bay khắp làng
xóm
dựng lên bao
nhiêu
là những nhà
cửa,
thì mới tìm
được
xá lợi Thế
tôn.
(20) Giả sử mõm
lừa
đỏ lên in
như
trái cây tần
bà
lại khéo ca
vũ,
thì mới tìm
được
xá lợi Thế
tôn.
(21) Quạ với cú
mèo
đứng được một
chỗ
và cả hai
bên
thuận tùng với
nhau,
thì mới tìm
được
xá lợi Thế
tôn.
(22) Nếu lá ba
la
thành được tàn
lọng
có thể che
được
cơn mưa to
lớn,
thì mới tìm được
xá lợi Thế
tôn.
(23) Giả sử thuyền
lớn
chở đầy vàng
ngọc
mà lại lướt
đi
trên mặt đất
liền,
thì mới tìm
được
xá lợi Thế
tôn.
(24) Và nếu chim
ri
mỏ ngậm Hương
sơn
tùy theo ý
muốn
bay đâu cũng
được,
thì mới tìm
được
xá lợi Thế tôn.
Bà la môn Pháp sư
thọ ký nghe những lời chỉnh cú ấy, thì cũng đem chỉnh cú mà đáp lại đồng tử Ai
cũng thích nhìn.
(25) Lành thay
đồng tử
bậc đại cát
tường,
khéo léo sử
dụng
tuệ giác phương
tiện,
nên được Thế
tôn
thọ vô thượng
ký.
(26) Uy đức Thế
tôn
cực kỳ vĩ
đại,
đầy cả năng
lực
cứu hộ thế
giới;
ông hãy nghe
tôi
tuần tự nói
đến.
(27) Lĩnh vực Thế
tôn
rất khó nghĩ
thấu,
toàn thể thế
giới
không ai đồng
đẳng;
pháp thân của
Ngài
thể tánh thường
trú,
tu hành cũng
không
làm cho sai
biệt.
(28)
thể tánh đồng
nhất,
Pháp các Ngài
nói
cũng là như
vậy;
nên chư Thế
tôn
vốn phi tạo
tác,
lại nữa cũng
là
vốn phi sinh
khởi.
(29) Thân thể kim
cương
của chư Thế
tôn
quyền biến thị
hiện
thân thể ứng
hóa;
thế nên xá
lợi
của chư Thế
tôn
cũng vốn không
có
bằng một hạt
cải.
(30) Thân chư Thế
tôn
không phải máu
thịt,
làm sao mà
có
linh cốt xá
lợi;
thế nhưng phương
tiện
lưu lại linh
cốt,
là để lợi
ích
bao loại chúng
sinh.
(31) Pháp thân là
Phật,
pháp giới cũng
Phật;
pháp thân mới
thật
là thân của
Phật,
Pháp của Phật
nói
là pháp giới
ấy.
Trong đại hội có
ba mươi hai ngàn thiên tử, nghe nói như vậy về thọ mạng bất diệt đức Thế tôn,
ai cũng phát tâm vô thượng bồ đề, hoan hỷ, phấn chấn, cảm được sự thể chưa bao
giờ có, nên khác miệng mà đồng tiếng, nói mấy lời chỉnh cú sau đây.
(32) Phật không
nhập diệt,
Pháp cũng bất
diệt,
chỉ vì ích
lợi
cho bao chúng
sinh,
nên Phật thị
hiện
có sự diệt
tận.
(33) Phật thì đích
thị
bất khả tư
nghị,
thân mầu của
Phật
không hề biến
đổi,
nhưng vì ích
lợi
cho bao chúng
sinh
mà Phật thị
hiện
mọi sự trang
nghiêm.
Bấy giờ bồ tát
Diệu tràng đích thân đối trước đức Thế tôn, trước bốn đức Thế tôn, trước hai vị
đại nhân và bao nhiêu thiên tử, nghe nói thọ lượng của đức Thế tôn, thì lại từ
chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay cung kính mà thưa với Ngài, rằng bạch đức Thế tôn,
nếu thật chư vị Thế tôn không nhập niết bàn, không có xá lợi, thì tại sao trong
các kinh trước đây nói Ngài có niết bàn, và có xá lợi để cho nhân loại và chư
thiên tôn kính hiến cúng?
Vào lúc ấy, đức Thế tôn bảo bồ tát Diệu tràng, và cả đại hội, rằng các người phải nhận thức, nói có niết bàn và có xá lợi là nói theo ý nghĩa bí mật. Ý nghĩa như vậy hãy chuyên nhất tâm trí mà nghe. Thiện nam tử, bồ tát đại sĩ nên biết như vầy: có mười sự thể có thể lý giải ý nghĩa chân thật của Như lai nói có niết bàn vĩ đại và cứu cánh. Thế nào là mười? Một là chư Như lai cứu cánh diệt hết phiền não chướng và sở tri chướng nên nói là niết bàn. Hai là chư Như lai khéo léo thấu triệt nhân vô tánh và pháp vô tánh nên nói là niết bàn. Ba là chư Như lai có thể chuyển thân y và pháp y nên nói là niết bàn. Bốn là chư Như lai đối với chúng sinh, một cách tự nhiên, tạm ngừng hóa độ [khi cơ duyên hóa độ đã hết], nên nói là niết bàn. Năm là chư Như lai chứng được pháp thân không có sai biệt nên nói là niết bàn. Sáu là chư Như lai thấu triệt cái tánh bất nhị của sinh tử với niết bàn nên nói là niết bàn. Bảy là chư Như lai thấu triệt căn bản của các pháp, thực hiện thanh tịnh nên nói là niết bàn. Tám là chư Như lai khéo léo tu hành sự bất sinh diệt của các pháp nên nói là niết bàn. Chín là chư Như lai chứng được chánh trí đối với chân như nên nói là niết bàn. Mười là chư Như lai chứng được sự không sai biệt của tánh các pháp và tánh niết bàn nên nói là niết bàn. Như thế đó là mười sự thể nói có niết bàn.
Thiện nam tử, bồ tát đại sĩ nên biết như vầy: có mười sự thể nữa có thể lý giải ý nghĩa chân thật của Như lai nói có niết bàn vĩ đại và cứu cánh. Thế nào là mười? Một là mọi thứ phiền não lấy ưa muốn làm gốc, từ ưa muốn mà sinh, chư Như lai dứt ưa muốn nên nói là niết bàn. Hai là chư Như lai dứt hết ưa muốn, không thủ đắc một pháp nào cả: vì không thủ đắc mà không đi không đến nên nói là niết bàn. Ba là vì không đi đến, không thủ đắc, thế là pháp thân bất sinh diệt: bất sinh diệt nên nói là niết bàn. Bốn là sự bất sinh diệt thì không phải ngôn ngữ nói thấu: ngôn ngữ loại bỏ nên nói là niết bàn. Năm là không có bản ngã và sinh thể, tư duy sự sinh diệt của các pháp mà được chuyển y nên nói là niết bàn. Sáu là phiền não là khách, pháp tánh là chủ, không đến không đi: chư Như lai thấu triệt như vậy nên nói là niết bàn. Bảy là chân như là thật, ngoài ra là giả: chân như là Như lai nên nói là niết bàn. Tám là thật tế thì không hý luận: chỉ có Như lai chứng pháp thật tế, vĩnh diệt hý luận nên nói là niết bàn. Chính là vô sinh thì thật, sinh thì dối: người ngu chìm đắm sinh tử, còn thật thể Như lai thì không giả dối nên nói là niết bàn. Mười là cái pháp không thật thì do duyên sinh, cái pháp chân thật thì phi duyên sinh, mà pháp thân Như lai là chân thật nên nói là niết bàn. Như thế đó là mười sự thể nói có niết bàn.
Thiện nam tử, bồ tát đại sĩ nên biết như vầy: có mười sự thể nữa có thể lý giải ý nghĩa chân thật của Như lai nói có niết bàn vĩ đại và cứu cánh. Thế nào là mười? Một là Như lai khéo biết bố thí và quả báo của bố thí là không bản ngã và sở hữu của bản ngã; đối với bố thí và quả báo của bố thí, sự phân biệt không chính xác vĩnh viễn loại trừ nên nói là niết bàn. Hai là Như lai khéo biết trì giới và quả báo của trì giới là không bản ngã và sở hữu của bản ngã; đối với trì giới và quả báo của trì giới, sự phân biệt không chính xác vĩnh viễn loại trừ nên nói là niết bàn. Ba là Như lai khéo biết nhẫn nhục và quả báo của nhẫn nhục là không bản ngã và sở hữu của bản ngã; đối với nhẫn nhục và quả báo của nhẫn nhục, sự phân biệt không chính xác vĩnh viễn loại trừ nên nói là niết bàn. Bốn là Như lai khéo biết tinh tiến và quả báo của tinh tiến là không bản ngã và sở hữu của bản ngã; đối với tinh tiến và quả báo của tinh tiến, sự phân biệt không chính xác vĩnh viễn loại trừ nên nói là niết bàn. Năm là Như lai khéo biết thiền định và quả báo của thiền định là không bản ngã và sở hữu của bản ngã; đối với thiền định và quả báo của thiền định, sự phân biệt không chính xác vĩnh viễn loại trừ nên nói là niết bàn. Sáu là Như lai khéo biết trí tuệ và quả báo của trí tuệ là không bản ngã và sở hữu của bản ngã; đối với trí tuệ và quả báo của trí tuệ, sự phân biệt không chính xác vĩnh viễn loại trừ nên nói là niết bàn. Bảy là Như lai khéo biết chúng sinh phi chúng sinh, các pháp phi các pháp, sự phân biệt không chính xác vĩnh viễn loại trừ nên nói là niết bàn. Tám là thương mình thì đeo đuổi, theo đuổi thì đau khổ; Như lai dứt thương mình, hết theo đuổi: hết theo đuổi nên nói là niết bàn. Chín là các pháp hữu vi thì toàn có số lượng, pháp tánh vô vi thì số lượng loại kết; Như lai rời hữu vi, chứng vô vi, không số lượng nên nói là niết bàn. Mười là Như lai thấu triệt chúng sinh và các pháp toàn không: không tánh là pháp thân chân thật nên nói là niết bàn. Như thế đó là mười sự thể nói có niết bàn.
Lại nữa, Thiện nam tử, đâu phải chỉ có cái việc không nhập niết bàn của Như lai là hiếm có, mà còn có mười sự hiếm có nữa là việc Như lai làm. Thế nào là mười? Một, sinh tử thì tội lỗi, niết bàn thì vắng lặng, thế nhưng Như lai chứng được sự bình đẳng của sinh tử với niết bàn, nên không ở sinh tử, không ở niết bàn, không chán bỏ phản bội chúng sinh, đó là việc Như lai làm. Hai, đối với chúng sinh, Như lai không nghĩ họ là ngu phu, đi theo quan niệm thác loạn, bị phiền não ép buộc, Như lai phải khai thị cho họ siêu thoát; thế nhưng do sức mạnh của từ bi quá khứ, nên đối với chúng sinh vẫn tùy trình độ, ý thích và nhận định (7) của họ mà tự nhiên cứu độ, chỉ thị và huấn dụ cho họ lợi ích và hoan hỷ (8) mà không phân biệt gì hết, cùng tận thì gian, không có kết thúc, đó là việc Như lai làm. Ba, Như lai không nghĩ Như lai phu diễn mười hai thành phần của giáo pháp (9) , lợi ích chúng sinh; thế nhưng do sức mạnh từ bi quá khứ, vẫn tuyên thuyết phong phú cho chúng sinh, cho đến cùng tận thì gian, không có kết thúc, đó là việc Như lai làm. Bốn, Như lai không nghĩ đi đến thị thành, thôn quê, những nơi dân cư, vào nhà vua chúa, đại thần, bốn giai cấp xã hội mà khất thực; nhưng do sức mạnh huân tập của thân miệng ý quá khứ mà tự nhiên đi đến, vì lợi ích cho họ mà khất thực, đó là việc Như lai làm. Năm, Như lai thì thân không đói khát, cũng không đại tiểu, nên tuy khất thực mà không thọ thực; nhưng vì tự nhiên ích lợi chúng sinh nên hiện có ăn uống, đó là việc Như lai làm. Sáu, Như lai không nghĩ chúng sinh có cao vừa thấp, tùy trình độ của họ mà thuyết pháp cho; nhưng Như lai không phân biệt mà vẫn tự nhiên tùy trình độ (10) chúng sinh, khéo ứng theo cơ duyên mà thuyết pháp cho họ, đó là việc Như lai làm. Bảy, Như lai không nghĩ có người không tôn kính Như lai, thường phát ngôn phỉ báng, Như lai không thể đối thoại; có người tôn kính Như lai, thường phát ngôn ca tụng, Như lai có thể đối thoại; thế nhưng Như lai thường có tâm từ bi, bình đẳng bất nhị, đó là việc Như lai làm. Tám, Như lai không có thương ghét, kiêu ngạo, tham tiếc, và mọi thứ phiền não đồng đẳng như vậy; mà Như lai thường thích vắng lặng, khen thiểu dục, tách rời huyên náo, đó là việc Như lai làm. Chín, Như lai không có một pháp nào không biết và không khéo thông suốt, đối với toàn bộ các pháp thì cảnh trí (11) như ở trước mắt và không có phân biệt; thế nhưng Như lai vẫn thấy công việc của chúng sinh, tùy ý họ mà phương tiện dẫn dụ cho họ siêu thoát, đó là việc Như lai làm. Mười, Như lai thấy ai giàu thịnh thì không mừng, thấy họ suy bại cũng không lo; nhưng thấy họ làm theo chánh hạnh thì vô ngại đại bi tự nhiên gia hộ, thấy họ làm theo tà hạnh thì vô ngại đại bi tự nhiên cứu hộ, đó là việc của Như lai làm. Thiện nam tử, nên biết Như lai nói có vô lượng diệu hạnh như vậy, và đó là sắc thái thật của niết bàn. Còn có khi các người thấy Như lai nhập niết bàn, thì đó là phương tiện thích nghi; các người lại thấy lưu lại xá lợi thì đó là để cho chúng sinh tôn kính hiến cúng. Những việc như vậy toàn là do sức mạnh từ bi của Như lai, để ai hiến cúng xá lợi thì vị lai xa rời tám nạn, gặp được chư vị Như lại, gặp được các bậc Thiện tri thức, thiện tâm liên tục chứ không mất, phước báo vô cùng, mau được siêu thoát, không bị sinh tử trói buộc. Diệu hạnh như vậy các người nên nỗ lực mà làm, đừng có phóng dật.
Bồ tát Diệu tràng nghe đức Thế tôn đích thân nói đến sự không nhập niết bàn và những diệu hạnh cực sâu, thì chắp tay, cung kính mà thưa, bạch đức Thế tôn, ngày nay con mới biết bậc Thầy cao cả không nhập niết bàn và lưu lại xá lợi, nhưng vì lợi ích một cách rộng lớn cho chúng sinh [mà thị hiện niết bàn và lưu lại xá lợi]. Cả cơ thể và tâm trí đều phấn chấn, vui đẹp, bồ tát Diệu tràng than rằng thật là sự thể chưa bao giờ có.
Khi phẩm thọ lượng Thế tôn được tuyên thuyết hoàn tất thì vô số chúng sinh phát tâm vô thượng bồ đề. Và bốn đức Thế tôn đều ẩn mất. Bồ tát Diệu tràng đảnh lễ ngang chân đức Thế tôn, rồi đứng dậy trở về chỗ cũ.