Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bích Nham Lục

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 33138)
Bích Nham Lục

BÍCH NHAM LỤC

(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

blank



blankVÀI NÉT VỀ DỊCH GIẢ 

HT Thích Mãn Giác, sanh năm Kỷ Tỵ tại Cố Đố Huế. Nguyên quán Làng Phương Lang, Quận Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Xuất gia nhập đạo năm 11 tuổi. Thọ Đại Giới năm 1948 cùng một lần với Hòa Thượng Thiện Siêu, cố Hòa Thượng Thiện Minh, cố Hòa Thượng Thiên Ân…

Về Giáo Dục:

-Tốt nghiệp Đại Học Phật Giáo tại Phật Học Đường Báo Quốc Huế 1952.
-Du học Tokyo Nhựt Bổn 1960.
-Đỗ văn bằng Cao Học Văn HỌc toyo University, Tokyo,1962.
-Tùng học ban Cao Học Triết Học Ấn Độ (Faculty of Letters, University of Tokyo) 1964-1965.
-Tốt nghiệp Văn Học Bác Sĩ tại Toyo University 1968.
-Đỗ Tiến Sĩ Triết Học, University of Oriental Studies 1979.
Về Giáo Hội, Giáo DụcXã Hội
-Giảng Sư Hội Phật Học Lâm Đồng (Dalat) 1953.
-Hội Trưởng Hội Phật Học Lâm Viên Dalat 55-60.
-Bộ Giáo Dục tuyển dụng làm Giáo Sư Đại Học Văn Khoa Saigon và Huế cuối năm 1965.
-Hội Trưởng Hội Bảo Tồn Cố Đố Huế 1973-1975.
-Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Thanh Niên 1966-1969.
-Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Văn Hóa 1969-1975.
-Khoa Trưởng Phân Khoa Phật HọcTriết Học Đông Phương, Viện Đại Học Vạn hạnh 1965-1969.
-Phó Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh Đặc Trách Điều Hành 1971-1975.
-Giáo Sư Đại Học Văn Khoa Saigon và Huế 1965-1975.

Sinh Hoạt Hiện Tại

-Đồng Tổng Thư Ký Hội Đồng Giáo Phẩm Lãnh Đạo GHPGVNTN tại Hải Ngoại
-Hội Viên Hội Đồng Quản Trị tái Thiết Vườn Lâm Tì Ni tại Hoa Kỳ
-Hội Viên Hội Đồng Tái Thiết Vườn Lâm Tì Ni của Hội Phật Giáo Thế Giới.
-Chứng Minh Đạo Sư của Buddhist Sangha Council of Southern California
-Viện Chủ Giáo Hội PGVNTN tại Los Angeles
-Hội Chủ Tổng Hội PGVN tại Hoa Kỳ

MỤC LỤC

Vài nét về dịch giả
Lời Giới Thiệu
Phần 1
Tắc thứ Nhứt: Cái Trống Không Của Đạt Ma
Tắc thứ Nhì: Đạo Vô Nan Của Triệu Châu
Tắc thứ Ba:Mã Sư Bất An
Tắc thứ Tư: Đức Sơn Mang Bao Hành Trang
Tắc thứ Năm: Hạt Gạo Của Tuyết Phong
Tắc thứ Sáu: Một Ngày Đẹp Của Vân Môn
Tắc thứ Bảy: Huệ Siêu Hỏi Về Phật
Tắc thứ Tám: Thúy Nham Dạy Đồ Chúng Cuối Hạ
Tắc thứ Chín: Bốn Cửa Của Triệu Châu
Tắc thứ Mười: Ba Tiếng Hét Của Mục Châu
Phần 2
Tắc thứ Mười Một: Kẻ Uống Cặn Rượu Của Hoàng Bá
Tắc thứ Mười Hai: Ba Cân Gai Của Động Sơn
Tắc thứ Mười Ba:Chén Bạc Của Ba Lăng
Tắc thứ Mười Bốn: Một Lời Đúng Của Vân Môn 
Tắc thứ Mười Lăm:Một Câu Nói Ngược Của Vân Môn
Tắc thứ Mười Sáu: Người Trong Cỏ Của Kính Thanh
Tắc thứ Mười Bảy: Hương Lâm Ngồi Lâu
Tắc thứ Mười Tám: Túc Tông Thỉnh Pháp
Tắc thứ Mười Chín: Ngón Tay Thiên Của Câu Chi
Tắc thứ Hai Mươi: Long Nha và Ý Của Tổ Sư Từ Tây Thiên Qua
Phần 3
Tắc thứ Hai Mươi Mốt: Hoa Sen Của Trí Môn
Tắc thứ Hai Mươi Hai: Con Rắn Mũi Rùa Của Tuyết Phong
Tắc thứ Hai Mươi Ba: Diệu Phong Đỉnh Của Bảo Phúc
Tắc thứ Hai Mươi Bốn: Qui Sơn Và Lưu Thiết Ma
Tắc thứ Hai Mươi Lăm: Liên Hoa Trụ Trượng
Tắc thứ Hai Mươi Sáu: Bác Trượng Ngồi Một Mình Trên Đỉnh Đại Hùng
Tắc thứ Hai Mươi Bảy: Thể Lộ Kim Phong Của Vân Môn
Tắc thứ Hai Mươi Tám: Chư Thánh Của Niết Bàn Hòa Thượng
Tắc thứ Hai Mươi Chín: Hỏa Kiếp Của Đại Tùy
Tắc thứ Ba Mươi: Củ Cải Của Triệu Châu
Phần 4
Tắc thứ Ba Mươi Mốt: Ma Cốc Chống Gậy
Tắc thứ Ba Mươi Hai: Phật Pháp Đại Ý Của Lâm Tế
Tắc thứ Ba Mươi Ba: Trần Thượng Thư Viếng Từ Phúc
Tắc thứ Ba Mươi Bốn: Ngưỡng Sơn Hỏi Từ Đâu Đến
Tắc thứ Ba Mươi Lăm: Văn ThùVô Trước
Tắc thứ Ba Mươi Sáu: Trường Sa Một Hôm Đi Chơi Núi
Tắc thứ Ba Mươi Bảy: Tam Giới Vô Pháp Của Bản Sơn
Tắc thứ Ba Mươi Tám: Trâu Sắt Của Phong Huyệt
Tắc thứ Ba Mươi Chín: Kim Mao Sư Tử Của Vân Môn
Tắc thứ Bốn Mươi: “Giống Như Mộng” Của Nam Tuyền
Phần 5
Tắc thứ Bốn Mươi Mốt: Người Chết Lớn Của Triệu Châu
Tắc thứ Bốn Mươi Hai:Từng Phiến Tuyết Của Bàng Cư Sĩ
Tắc thứ Bốn Mươi Ba: Không Nóng Không Lạnh Của Động Sơn
Tắc thứ Bốn Mươi Bốn: Hòa Sơn Biết Đánh Trống
Tắc thứ Bốn Mươi Lăm: Vạn Pháp Qui Nhất Của Triệu Châu
Tắc thứ Bốn Mươi Sáu: Tiếng Mưa Rơi Của Kính Thanh
Tắc thứ Bốn Mươi Bảy: Sáu Không Thu Của Vân Môn
Tắc thứ Bốn Mươi Tám: Vương Thái Phó Nấu Trà 
Tắc thứ Bốn Mươi Chín: Tam Thánh Lấy Gì Để Ăn
Tắc thứ Năm Mươi: Trần Trần Tam Muội Của Vân Môn
Phần 6
Tắc thứ Năm Mươi Mốt: “Cái Gì Đây” Của Tuyết Phong
Tắc thứ Năm Mươi Hai: Cầu Đá Của Triệu Châu
Tắc thứ Năm Mươi Ba: Vịt Trời Của Mã Đại Sư
Tắc thứ Năm Mươi Bốn: “ Mới Ở Đâu Tới” Của Vân Môn
Tắc thứ Năm Mươi Lăm: Đạo NgôTiệm Nguyên Đi Điếu Tang
Tắc thứ Năm Mươi Sáu: Một Mũi Tên Phá Ba Ải Của Vân Môn
Tắc thứ Năm Mươi Bảy: Chí Đạo Vô Nam Của Triệu Châu
Tắc thứ Năm Mươi Tám: Triệu Châu Và Khuôn Sáo Thời Thượng
Tắc thứ Năm Mươi Chín: Triệu Châu Và Đừng So Đo
Tắc thứ Sáu Mươi: Cây Gậy Của Vân Môn
Phần 7
Tắc thứ Sáu Mươi Mốt: Một Hạt Bụi Của Phong Huyệt
Tắc thứ Sáu Mươi Hai: Viên Ngọc Của Vân Môn
Tắc thứ Sáu Mươi Ba: Nam Tuyền Giết Mèo
Tắc thứ Sáu Mươi Bốn: Nam Tuyền Hỏi Triệu Châu
Tắc thứ Sáu Mươi Lăm: Ngoại Đạo Hỏi Phật Về Hữu Vô
Tắc thứ Sáu Mươi Sáu: Nham Đầu Và “Từ Đâu Tới”
Tắc thứ Sáu Mươi Bảy: Lương Vũ Đế Mời Giảng Kinh
Tắc thứ Sáu Mươi Tám: Ngưỡng Sơn Hỏi Tam Thánh
Tắc thứ Sáu Mươi Chín: Nam Tuyền Bái Trung Quốc Sư
Tắc thứ Bảy Mươi :Qui Sơn Đứng Hầu Bách Trượng
Phần 8
Tắc thứ Bảy Mươi Mốt: Bách Trượng Và không Với Cổ Họng Với Miệng Môi
Tắc thứ Bảy Mươi Hai: Bách Trượng Hỏi Vân Nham
Tắc thứ Bảy Mươi Ba: Tứ Cú Bách Phi Của Mã Đại Sư
Tắc thứ Bảy Mươi Bốn: Kim Ngưu Hòa Thượng Cười Ha Ha
Tắc thứ Bảy Mươi Lăm: Ô Cữu Hỏi Pháp Đạo
Tắc thứ Bảy Mươi Sáu: Đan Hà Hỏi Từ Đâu Tới
Tắc thứ Bảy Mươi Bảy: Bánh Của Vân Môn
Tắc thứ Bảy Mươi Tám:Mười Sáu Bồ Tát Đi Tắm
Tắc thứ Bảy Mươi Chín:Tất Cả Các Âm Thanh Của Đầu Tử
Tắc thứ Tám Mươi: Hài Từ Thức Của Triệu Châu
Phần 9
Tắc thứ Tám Mươi Mốt:Dược Sơn Bắn Nai
Tắc thứ Tám Mươi Hai: Kiên Cố Pháp Thân Của Đại Long
Tắc thứ Tám Mươi Ba: Cổ Phật Và Cột Trụ Của Vân Môn 
Tắc thứ Tám Mươi Bốn: Bất Nhị Pháp Môn Của Duy Ma cật
Tắc thứ Tám Mươi Lăm:Con Cọp Của Đồng Phong Am Chủ
Tắc thứ Tám Mươi Sáu: Quang Minh Của Vân Môn
Tắc thứ Tám Mươi Bảy: Bệnh Và Thuốc Trị Lẫn Nhau Của Vân Môn
Tắc thứ Tám Mươi Tám: Huyền Sa Tiếp Vật Lợi Sinh
Tắc thứ Tám Mươi Chín: Tay Và Mắt Của Đại Bi Bồ Tát
Tắc thứ Chín Mươi: Bát Nhã Thể Của Trí Môn
Phần 10
Tắc thứ Chín Mươi Mốt: Tê Giác Của Diêm Quan
Tắc thứ Chín Mươi Hai: Thế Tôn Một Hôm Thăng Tòa
Tắc thứ Chín Mươi Ba: Đại Quang Sư Nhảy Múa
Tắc thứ Chín Mươi Bốn: Thấy Cái Không Thấy Trong Kinh Lăng Nghiêm
Tắc thứ Chín Mươi Lăm: Tam Độc Của Trường Khánh
Tắc thứ Chín Mươi Sáu: Ba Chuyển Ngữ Của Triệu Châu
Tắc thứ Chín Mươi Bảy: Kim Cương Kinh Khinh Tiện
Tắc thứ Chín Mươi Tám: Hai Cái Sai Của Thiên Bình Hòa Thượng
Tắc thứ Chín Mươi Chín: Thập Thân Điều Ngự Của Túc Tông
Tắc thứ Một Trăm: Kiếm Sắc Của Ba Lăng 

Đọc Thêm:
Bích Nham Lục, HT. Thích Thanh Từ dịch

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11650)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11974)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11127)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11363)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12082)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12574)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10779)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18005)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11740)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9963)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10189)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12362)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15361)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11261)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14343)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12122)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15384)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12016)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12426)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11197)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12098)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10630)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12568)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13182)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14854)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12708)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16591)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19682)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13118)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12676)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12277)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11869)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10910)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13550)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11967)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11855)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11649)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12780)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14532)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12629)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15675)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13641)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12916)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9885)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18029)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11187)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9093)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12195)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13072)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10324)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12208)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15330)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16619)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12233)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11498)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14285)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19718)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14164)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24625)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10709)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant