Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tắc thứ Bảy Mươi Ba: Tứ Cú Bách Phi Của Mã Đại Sư

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15767)
Tắc thứ Bảy Mươi Ba: Tứ Cú Bách Phi Của Mã Đại Sư

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 8

TẮC THỨ BẢY MƯƠI BA

TỨ CÚ BÁCH PHI CỦA MÃ ĐẠI SƯ

 

THÙY:Phàm việc thuyết Pháp, vô thuyết vô thí; còn người nghe Pháp, cũng chẳng nghe chẳng đắc. Thuyết (Pháp) đã là vô thuyết vô thí, chi bằng đừng thuyết? Nghe đã chẳng nghe chẳng đắc, chi bằng đừng nghe? Vậy thì vô thuyết với vô thính vẫn còn là hơn. Còn như giờ đây các ông nghe sư núi tôi giảng thuyết, làm thế nào để tránh lỗi lầm ấy đây? Thử nêu lên cho những người có mắt nhìn thấu được quan kiện xem.

CỬ: Có ông tăng hỏi Mã Đại Sư, “Ly tứ cú tuyệt bách phi, xin thầy chỉ thẳng cho đệ tử ý chỉ của việc Tổ Sư từ Tây Trúc qua.” Mã Đại Sư nói, “Hôm nay tôi mệt, không giải thích cho ông được. Ông cứ đi hỏi Trí Tạng đi.” Ông tăng đến hỏi Trí Tạng, Trí Tạng nói, “Tại sao ông không hỏi hòa thượng?” Ông tăng nói, “Hòa thượng dạy cho tôi đến đây hỏi thầy.” Trí Tạng nói, “hôm nay tôi bị nhức đầu, không giải thích cho ông được, ông đi hỏi Hải Huynh đi.” Ông tăng đến hỏi Hải Huynh (Bách Trượng), Hải Huynh nói, “Đến chỗ này tôi chẳng hiểu gì cả.” Ông tăng thuật lại cho Mã Đại Sư nói, “Tạng đầu trắng, Hải đầu đen.”

BÌNH:Về công án này , thuở xưa lúc sư núi tôi tham học với Chân Giác ở Thành Đô, Chân Giác nói, “Chỉ cần xem câu thứ nhất của Mã Tổlập tức hiểu ngay.” Thử nói xem, ông tăng kia hiểu mà đến hỏi hay không hiểu mà đến hỏi? Câu hỏi của ông ta quả thực là thâm sâu. Ly tứ cú (có nghĩa là lìa) hữu, vô, phi hữu phi vô, phi phi hữu, phi phi vô. Ly tứ cú là tuyệt được bách phi. Song nếu như các ông chỉ lo tạo nên những lý thuyết mà không hiểu thoại đầu, thì vỡ đầu mệt óc đi nữa cũng chẳng thấy được.

Nếu như là sư núi tôi, tôi sẽ đợi Mã Tổ nói xong lập tức trải tọa cụ ra rồi lậy ba lậy, để xem thầy ta phản ứng như thế nào. Lúc ấy nếu như Mã Tổ thấy ông tăng kia bước tới hỏi rằng, “Ly tứ cú tuyệt bách phi, xin thầy chỉ thẳng cho đệ tử ý chỉ của việc Tổ Sư từ Tây Trúc qua,” mà cứ tung gậy lên khện cho một trận rồi đuổi ra xem ông ta có tỉnh ngộ hay không nào? Mã Đại Sư lại chỉ lo tạo dây dưa cho ông ta, cho đến nỗi ông tăng này ngay trước mặt mà để lỡ mất,Mã Đại Sư lại dạy ông ta đến hỏi Trí Tạng. Không hề hay biết rằng Mã Đại Sư phân biện được trước những gì sẽ xảy tới, ông tăng kia lại ngu ngơ đến hỏi Trí Tạng. Trí Tạng nói, “Tại sao ông không hỏi hòa thượng?” Ông tăng nói, “Hòa thượng dạy tôi đến đây hỏi thầy.” Nhìn xem cái này của ông tăng, vừa bị dồn là ông ta đã xoay chuyển không để phí chút ít thì giờ. Trí Tạng nói, “Hôm nay tôi bị nhức đầu, không giải thích cho ông được. Đi hỏi Hải Huynh đi.”

Ông tăng kia lại đến hỏi Hải Huynh. Hải Huynh nói, “Đến chỗ này tôi chẳng hiểu gì cả.” Thử nói xem, tại sao một người thì bảo bị nhức đầu, còn một người thì lại bảo là không hiểu gì cả? Rốt cuộc là gì đây? Ông tăng kia bèn quay về thuật lại cho Mã Đại Sư. Mã Đại Sư nói, “Tạng đầu trắng, Hải đầu đen.” Nếu như các ông dùng trí thức ra mà so đo, hẳn là sẽ nói rằng họ lừa ông tăng. Có kẻ bảo rằng cả ba người chỉ thoát thác, có kẻ bảo rằng cả ba người đều hiểu câu hỏi của ông tăng, cho nên mới không trả lời. Nói như thế thì chỉ là tự bịt mắt mà bỏ độc dược vào đề hồ của cổ nhân.

Cho nên Mã Tổ mới nói với Bàng Cư Sĩ, “Đợi khi nào ông một ngụm uống cạn nước sông Giang Tây rồi tôi sẽ nói cho ông.” Lời này cũng giống với công án này. Nếu như các ông hiểu được “Tạng đầu trắng, Hải đầu đen” thì các ông mới hiểu được câu nói về sông Giang Tây kia. Ông tăng này đem một gánh lúng túng ra đổi lấy sự không an lạc,lại làm nhọc đến ba vị tôn túc kia phải đi vào chốn bùn lấm. Rốt cuộc ông tăng cũng chẳng nhìn thấy được. Tuy rằng là thế, song ba vị tông sư này lại bị một gã khiêng ván khám phá.

Người thời buổi này chỉ lo bám vào ngôn ngữ mà sống. Họ bảo rằng trắng có nghĩa là hòa hợp với ánh sáng, còn đen co nghĩa là hòa hợp với bóng tồi. Chỉ mãi lo dùi đục so đo, đâu có hay rằng cổ nhân chỉ với một câu đã cắt đứt ý căn. Cần phải đi vào chính mạch mà tự nhìn thấy thì mới được. Cho nên mã Tổ mới nói, “ Câu cuối cùng đã đến được chỗ quan kiện. Cắt đứt câu nói, không thông phàm thánh.” Nếu như các ông toan bàn luận về việc này thì cũng giống như ấn một lưỡi kiếm lên trán, vừa định so đo là đã táng thân thất mạng ngay. Lại nói rằng, "Cũng như tung kiếm múa trên không, đừng có luận tới hay không tới.” Cứ đến cái chỗ tám hướng lung linh mà hiểu.

Há không nghe cổ nhân nói, “Đồ thùng đen!” hay “Đồ Chồn hoang!” hay “Đồ mù!” Thử nói xem là khác hay giống với một đường gây một tiếng hét. Nếu như các ông biết rằng thiên sai vạn biệt chỉ là một loại, thì tự nhiên là các ông có thể tám hướng thụ địch được. Các ông muốn hiểu “Tạng đầu trắng, Hải đầu đen? Không? Ngũ Tổ nói, “Phong hầu tiên sinh.”

TỤNG

Tạng đầu trắng Hải đầu đen,

Nạp tăng mắt sáng hiểu không được.

Ngựa non đạp chết người thiên hạ,

Lâm Tế chưa phải quân cướp ngày.

Ly tứ cú tuyệt bách phi,

Thiên thượng nhân gian chỉ ta biết.

BÌNH: Tạng đầu trắng, Hải đầu đen.” Thử nói xem có nghĩa là gì? Chỉ chút này thôi mà nạp tăng trong thiên hạ không nhảy ra khỏi được. Nhìn xem khúc cuối Tuyết Đậu kết luận mới khéo. Thầy ta nói rằng dù các ông có là các nạp tăng mắt sáng đi nữa các ông vẫn không hiểu nỗi. Cái này gọi là bí quyết thần tiên, không trao truyền từ cha cho con. Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp một đời, cuối cùng lại đơn truyền tâm ấn, gọi là Kim Cương Vương Bảo Kiếm, gọi là Chính Vị. Những việc dây dưa này là những cái không thể tránh được. Cổ nhân để lộ chút sắc bén của mình. Nếu như các ông là những người thấu qua được, thì tha hồ mà dùi đục để đạt được đại tự tại. Nếu như các ông không thấu qua được, thì cũng vẫn như trước không có chỗ để ngộ nhập. Càng nói càng xa đi.

“Ngựa non đạp chết người thiên hạ.” Tây Thiên Bát Nhã Đa La tiên tri với Bồ Đề Đạt Ma rằng, “Trung Hoa tuy lớn, song không có con đường nào khác, chỉ phải đi theo bước chân của các con cháu của ông mà thôi. Kim kê biết ngậm một hạt thóc mà cúng dường cho thập phương La Hán.” Lục Tổ lại cũng nói với Nam Nhạc Hoài Nhượng hòa thượng rằng, “Từ rày trở đi Phật pháp sẽ phát triển từ ông. Sau này dưới trướng của ông sẽ xuất hiện một ngựa non đạp chết hết người trong thiên hạ.” Sau đó (Mã Tổ) nói Pháp ở Giang Tây giảng đạo Phật khắp thiên hạ, lúc ấy được thiên hạ gọi là Mã Tổ. Bồ Đề Đạt Ma với Lục Tổ đều tiên tri trước về Mã Tổ. Xem cách hành sự của Mã Tổ quả nhiên đăc biệt, thầy ta chỉ nói, “ Tạng đầu trắng, Hải đầu đen.” Chúng ta thấy đây ngay chỗ thầy ta đạp chết hết người trong thiên hạ. Chỉ một câu trắng đen này thôi dù cho ngàn vạn người cũng chẳng cắn phá được.

“Lâm Tế chưa phải quân cướp ngày.” Lâm Tế một hôm dạy chúng rằng, “trong khối thịt đỏ âu này thường có một vô vị chân nhân ra vào ngay trước mặt các ông. Những ai chưa tin thì thử nhìn xem.” Lúc ấy có ông tăng bước ra hỏi, “ Vô vị chân nhân là gì?” Lâm Tế bước khỏi giường Thiền nắm chặt lấy ông tăng kia nói, “ Nói, nói.” Ông tăng kia không nói gì được cả. Lâm Tế đẩy ông ta ra nói. “Vô vị chân nhân là cái cứt khô gì đâu.” Sau này Tuyết Phong nghe thấy thế nói rằng, “Lâm Tế giống như quân cướp giữa ban ngày.”

Tuyết Đậu muốn gặp Lâm Tế quan sát Mã Tổ cơ phong thấy còn vượt qua cả Lâm Tế. Mã Tổ mới là quân cướp giữa ban ngày, chứ Lâm Tế vẫn chưa phải là quân cướp giữa ban ngày. Tuyết Đậi một lúc xuyên luôn cả hai. Để tụng ông tăng kia Tuyết Đậu nói, “Ly tứ cú tuyệt bách phi, thiên thượng nhân gian chỉ ta biết.” Song đừng có vào hang ma mà sống! Cổ nhân nói, “Câu hỏi nằm trong câu trả lời, câu trả lời nằm trong câu hỏi.” Ông tăng này quả thật là kỳ đặc. Làm sao mà các ông có thể ly tứ cú tuyệt bách phi được? Tuyết Đậu nói, “Việc này chỉ có ta biết.” Dù cho tam thế chư Phật đi nữa cũng chẳng ngó thấy được. Mọi người phải tự biết, thì các ông còn đến đây để cầu cái gì?

Đại Qui Chân Như niêm rằng, “Ông tăng hỏi như thế, Mã Tổ đáp như thế là ly tứ cú tuyệt bách phi. Trí Tạng và Hải Huynh đều chẳng biết.”

Các ông muốn hiểu chăng? Há không nghe nói “ngựa non đạp chết người thiên hạ” sao?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11622)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11932)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11098)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11334)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12059)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12550)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10757)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17968)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11717)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9937)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10166)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12345)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15330)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11233)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14319)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12089)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15351)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11994)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12390)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11156)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12073)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10599)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12550)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13155)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14811)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12668)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16540)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19633)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13103)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12652)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12249)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11834)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10894)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13492)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11938)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11836)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11622)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12755)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14498)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12589)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15655)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13603)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12887)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9856)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18007)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11153)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9063)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12170)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13035)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10292)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12178)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15296)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16592)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12209)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11461)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14261)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19688)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14137)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24596)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10677)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant