Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tắc thứ Năm Mươi Mốt: “Cái Gì Đây” Của Tuyết Phong

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15300)
Tắc thứ Năm Mươi Mốt: “Cái Gì Đây” Của Tuyết Phong

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 6

TẮC THỨ NĂM MƯƠI MỐT

“CÁI GÌ ĐÂY?” CỦA TUYẾT PHONG

 

THÙY: Vừa khởi thị phi, mất tâm bối rối. Không lạc thứ lớp, lại chẳng rờ rẫm.

Thử nói xem, buông bỏ có phải là nắm giữ? Đến chỗ này rồi mà vẫn còn chút tơ hòa giải thích, thì vẫn còn vướng vào ngôn ngữ. Nếu như vẫn còn mắc vào cơ cảnh, thì chỉ đều là dựa cỏ nương cây.Dù cho có đạt đến chỗ giải thoát đơn độc đi nữa, vẫn chưa khỏi vạn dặm ngóng cổng làng. Các ông đã nắm được chưa? Nếu chưa thì chỉ phải hiểu cái công án rõ ràng này. Thử nêu lên xem.

CỬ: Lúc Tuyết Phong ở trong am, có hai ông tăng đến đảnh lễ. Tuyết Phong thấy họ đến lấy tay đẩy cửa, có người ra nói, “Cái gì đây?” Ông tăng cũng nói, “Cái gì đây?” Tuyết Phong cúi đầu đi vào am.

Sau đó ông tăng đến nơi của Nham Đầu. Nham Đầu hỏi, “Từ đâu đến vậy?” Ông tăng nói, “Từ Lĩnh Nam đến.” Nham Đầu hỏi, “Đã từng đến gặp Tuyết Phong chưa?” Ông tăng nói, “Rồi.” Nham Đầu hỏi, “Thầy ta có lời dạy gì?” Ông tăng kể lại câu chuyện trên. Nham Đầu nói, “Thầy ta nói gì?” Ông tăng nói, “Thầy ta chẳng nói gì cả mà chỉ cúi đầu đi vào am.” Nham Đầu nói, “Ôi , đáng tiếc lúc đầu ta lại không nói câu cuối cho thầy ta. Nếu như ta nói, người trong thiên hạ làm gì được lão Tuyết đây?

Đến cuối hạ ông tăng kia lại đế cập đến câu chuyện nọ để xin chỉ thị. Nham Đầu nói, “Tại sao không hỏi từ trước?” Ông tăng nói, “Không dám xem nhẹ.” Nham Đầu nói, “Mặc dù Tuyết Phong cùng sinh trong một dòng với ta, song không cùng chết trong một dòng với ta. Nếu như ông muốn biết câu cuối cùng thì là cái này đây.”

BÌNH: Phàm kẻ muốn chống đỡ tông môn, cần phải biện được cơ duyên mà mình đang đương đầu. Phải biết tiến thoái thị phi, phải rõ sát hoạt nắm buông. Nếu như mắt hốt nhiên mờ đi, đến đâu gặp câu hỏi bèn hỏi, gặp đáp bèn đáp, đâu có hay rằng lỗ mũi mình nằm trong tay người khác.Còn như Tuyết PhongNham Đầu là cùng học với Đức Sơn. Hai ông tăng kia đến tham kiến Tuyết Phong, chỗ hiểu biết chỉ đến mức đó mà thôi. Cho đến lúc gặp Nham Đầu, vẫn chưa thành tựu được một việc kia. Làm phiền hai vị tôn túc này một cách vô ích. Một hỏi một đáp một cầm một buông, mãi cho đến giờ thiên hạ vẫn lúng túng lầm lạc không phân biện được. Song thử nói xem lúng túng lầm lạc ở chỗ nào?

Tuyết Phong tuy đi khắp các nơi, song phải mãi đến khi ở khách điếm trên Ngao Sơn, nhờ Nham Đầu khích cho mới đạt đượcchỗ thấu triệt. Sau đó vì vụ đàn áp Phật Giáo, Nham Đầu phải làm người đưa đò bên hồ. Ở mỗi bên bờ có treo một tấm bảng, mỗi khi có ai muốn qua sông thì cứ gõ lên bảng. Tuyết Phong lại nói, “ Muốn qua bờ bên nào?” Rồi thì vừa khua mái chèo từ trong đám lau lách xuất hiện.

Tuyết Phong thì trở về Lĩnh Nam trú trì một ngôi am. Ông tăng kia cũng là người tham Thiền từ lâu, Tuyết Phong thấy họ đến dơ tay đẩy cửa rồi ló người ra hỏi,” Cái gì đây?” Tuyết Phong cúi đầu đi vào trong am. Đây thường được gọi là sự hiểu biết ngoài ngôn ngữ, cho nên ông tăng kia không biết đâu mà rờ. Có người bảo rằng Tuyết Phong bị ông tăng kia hỏi như thế, không trả lời được cho nên cúi đầu quay vào am. Đâu có biết rằng có chỗ độc hại trong ý của Tuyết Phong. Tuy rằng Tuyết Phong chiếm được thượng phong, song giấu người lại lộ bóng, biết làm thế nào bây giờ.

Sau đó ông tăng từ biệt Tuyết Phong, đem công án này đến chỗ Nham Đầu phán đoán. Vừa đến đó, Nham Đầu hỏi, “ Từ đâu đến?” Ông tăng nói, “ Từ Lĩnh Nam đến.” Nham Đầu hỏi, “Đã từng đến gặp Tuyết Phong chưa?” Nếu như các ông muốn thấy được câu hỏi này thì hãy mau ghé mắt nhìn. Ông tăng nói, “Đến rồi.” Nham Đầu nói, “ Thầy ta có lời dạy gì?” Câu hỏi này không phải chỉ là câu hỏi suông. Song ông tăng không hiểu, chỉ lo đuổi theo ngữ mạch của Nham Đầu rồi xoay chuyển theo đó, Nham Đầu nói, “ Thầy ta nói gì?” Ông tăng nói, “ Thầy ta chẳng nói gì cả mà chỉ cúi đầu đi vào am.” Ông tăng này chẳng hề biết rằng Nham Đầu đã đi dép cỏ trong bụng ông ta đến mấy vòng rồi.

Nham Đầu nói, “Ôi, đáng tiếc lúc đầu ta lại không nói câu cuối cùng cho thầy ta. Nếu như ta nói, người trong thiên hạ làm gì được lão Tuyết đây?” Nham Đầu cũng xu phụ kẻ mạnh mà không nâng đỡ kẻ yếu. Ông tăng này vẫn cứ tối ám chẳng phân biệt được kẻ rành với tay mơ. Ôm một bụng hoài nghi ông ta cứ tưởng rằng Tuyết Phong không hiểu. Đến cuối hạ ông tăng lại đề cập đến câu chuyện nọ để xin chỉ thị. Nham Đầu nói,” Tại sao không hỏi từ trước?” Lão hán này khéo so đo thật. Ông tăng nói, “ Không dám xem nhẹ.” Nham Đầu nói, “ Mặc dù Tuyết Phong cùng sinh trong một dòng với ta, song lại không chết trong cùng một dòng với ta. Nếu như ông muốn biết câu cuối cùng thì là cái này đây.” Nham Đầu quả thật không tiếc mày mắt. Rốt cuộc các ông phải hiểu như thế nào?

Tuyết Phong từng làm đầu bếp trong chúng hội của Đức sơn. Một hôm sắp đến bữa chiều, Đức Sơn ôm bát đi đến Pháp đường. Tuyết Phong nói, “Chuông chưa điểm trống chưa đánh, lão hán này vác bát đi đâu vậy kìa?” Đức Sơn không nói gì cả, chỉ cúi đầu quay về phương trượng. Tuyết Phong thuật chuyện này lại cho Nham Đầu. Nham Đầu nói, “Ngay cả Đức Sơn mà cũng chưa hiểu câu cuối.” Đức Sơn nghe thế bèn sai thị giả gọi Nham Đầu vào phương trượng hỏi rằng, “Ông không chấp nhận lão tăng à?” Nham Đầu bí mật bày tỏ. Hôm sau Đức Sơn thượng đường giảng dạy khác hẳn những lúc bình thường. Nham Đầu đứng trước tăng đường vỗ tay cười lớn, nói, “ May mà lão hán hiểu câu cuối! Sau này thiên hạ làm gì được lão. Tuy như thế, song lại chỉ được ba năm.”

Trong công án này thì lúc Tuyết Phong thấy Đức Sơn không nói gì cứ tưởng là thầy ta chiếm thượng phong, đâu dè mình gặp phải giặc rồi. Song bởi vì thấy ta từng gặp giặc cho nên sau này cũng biết làm giặc. Cổ nhân nói, “ Câu cuối cùng mới mở được nhà lao.” Có người bảo là Nham Đầu hơn Tuyết Phong. Họ hiểu lầm rồi. Nham Đầu hơn Tuyết Phong. Họ hiểu lầm rồi. Nham Đầu thường dùng tâm cơ này mà dạy chúng rằng, “ Kẻ mắt sáng chẳng có khuôn khổ gì, cướp vật là cao, theo vật là thấp. Câu cuối này, cho dù các ông có chính mắt thấy Tổ Sư đến đi nữa cũng chẳng hiểu được.”

Gần bữa cơm chiều, lão Đức Sơn tự ôm bát đi xuống Pháp đường. Nham Đầu nói, “Ngay cả Đức Sơn mà cũng chưa hiểu câu cuối.” Tuyết Đậu niệm rằng, “ Từng nghe nói độc nhãn long, té ra chỉ có mỗi một mắt. Đâu có dè rằng Đức Sơn chỉ là con cọp không răng. Nếu như không nhờ Nham Đầu hiểu thấu, làm sao mà chúng ta biết được rằng hôm qua và hôm nay khác nhau? Các ông có muốn hiểu câu cuối cùng chăng? Chỉ cho lão Hồ biết, không cho các lão Hồ hiểu?”

Từ xưa đến nay công án thiên sai vạn biệt, giống như một rừng gai góc. Nếu như các ông hiểu thấu được, người trong thiên hạ chẳng làm gì được các ông cả, tam thế chư Phật cũng phải đứng ở thế hạ phong. Nếu như các ông không hiểu thấu được, thì hãy ngẫm lời Nham Đầu nói, “Tuyết Phong tuy sinh trong cùng một dòng với ta song lại không cùng chết trong một dòng với ta.” Chỉ trong một câu này thôi tự nhiên có chỗ xuất thân. Tuyết Đậu tụng rằng:

TỤNG

Câu cuối cùng,

Nói cho ông,

Thời tiết của sáng tối song song:

Cùng sinh một dòng cùng biết nhau,

Không chết cùng dòng khác hẳn nhau.

Khác hẳn nhau,

Đầu vàng[1]mắt xanh[2] phải phân biệt.

Nam bắc đông tây quay về đi

Đêm sau cùng ngắm tuyết ngàn đỉnh.

BÌNH: “Câu cuối cùng , nói cho ông.” Tuyết Đậu tụng câu cuối cùng này, có ý ngật lực vì người khác. Tụng thật thiết tha, song chỉ tụng một chi tiết nhỏ mà thôi. Nếu như muốn nhìn thấu thì chưa được. Song thầy ta còn dám mở miệng lớn nói rằng, “Thời tiết của sáng tối song song” để mở ra một con đường cho các ông và cũng để giải quyết một lần cho xong. Cuối cùng lại chú giải thêm cho các ông nữa. Như Chiêu Khánh một hôm hỏi La Sơn rằng, “ Nham Đầu nói, “Như vầy như vầy, không như vầy không như vầy’ ý chỉ là như thế nào?” La Sơn gọi, “Đại Sư!” Chiêu Khánh đáp “ Vâng”.La Sơn nói, “ Vừa sáng vừa tối.” Chiêu Khánh cúi đầu lạy tạ rồi đi. Ba hôm sau lại hỏi La Sơn, “ Mấy hôm trước đây được hòa thượng từ bi chỉ dạy, song đệ tử vẫn chưa nhìn thấu được.” La Sơn nói, “ Tôi đã tận tình nói cả cho ông rồi mà.” Chiêu Khánh nói, “Xin hòa thượng cầm đuốc soi đường cho.” La Sơn nói, “ Nếu vậy thì đại sư cứ đem chỗ nghi ra hỏi đi.” Chiêu Khánh nói, “Vừa sáng vừa tối’ có nghĩa là gì?” La Sơn nói, “Đồng sinh cũng đồng tử.” Chiêu Khánh bèn cúi lạy cảm tạ rồi đi.

Sau đó có ông tăng hỏi Chiêu Khánh,” Đồng sinh với đồng tử thì như thế nào?” Chiêu Khánh nói, “Ngậm cái miệng chó kia lại.” Ông tăng kia nói, “Đại sư ngậm miệng mà ăn cơm.” Sao đó ông tăng kia đến hỏi La Sơn, “Lúc đồng sinh đồng tử thì như thế nào?” La Sơn nói, “Giống như con bò không có sừng.” Ông tăng lại hỏi, “ Lúc đồng sinh mà không đồng tử thì như thế nào?” La Sơn nói, “Như hổ mang sừng.” Câu cuối cùng chính là đạo lý này đây.

Trong chúng hội của La Sơn có ông tăng dùng ý này để hỏi Chiêu Khánh, Chiêu Khánh nói, “Ai nấy đều biết. tại sao vậy? Nếu như ta nói một câu ở Đông Thắng Thần Châu thì ở Tây Ngưu Hóa Châu cũng biết. Trên trời nói một câu, nhân gian cũng biết. Tâm tâm biết nhau, mắt mắt chiếu nhau.”

Sinh cùng một dòng thì kể còn dễ thấy. Không đồng tử trong một dòng thì hoàn toàn khác nhau, ngay cả Thích Ca với Bồ Đầ Đạt Ma cũng rờ rẫm không ra. “Nam bắc đông tây quay về đi.” Có một cảnh giới khá tốt.” Đêm sâu cùng ngắm tuyết ngàn đỉnh.” Thử nói xem, đây là “vừa sáng vừa tối.” đồng sinh trong một dòng,” hay “đồng tử trong một dòng”? Nạp tăng có mắt sáng thử phân biện xem sao.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11635)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11959)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11113)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11343)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12062)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12558)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10766)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17979)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11727)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9947)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10168)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12350)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15339)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11240)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14326)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12095)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15362)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12000)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12405)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11184)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12085)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10613)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12554)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13169)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14840)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12679)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16575)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19665)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13108)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12666)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12263)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11847)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10899)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13523)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11949)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11840)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11632)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12767)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14516)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12614)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15665)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13625)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12894)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9866)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18015)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11165)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9082)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12171)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13048)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10308)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12198)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15311)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16611)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12215)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11481)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14270)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19699)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14151)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24608)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10691)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant