Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Tám: Thúy Nham Dạy Đồ Chúng Cuối Hạ

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15540)
Tắc thứ Tám: Thúy Nham Dạy Đồ Chúng Cuối Hạ

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 1

TẮC THỨ TÁM

THÚY NHAM DẠY ĐỒ CHÚNG CUỐI HẠ

 

THÙY: Nếu ông hiểu được ông có thể sử dụng nó trên đường, tựa như rồng gặp nước, cọp trên núi. Nếu không hiểu được, sự thật công ước vẫn áp đảo ông, ông giống như con dê non húc rào, kẻ ngổi gốc cây đợi thỏ. Có lúc một câu như sư tử ngồi xỗm, có lúc một câu như Kim Cương Bảo Vương Kiếm. Có lúc một câu làm hết người trong thiên hạ líu lưỡi, có lúc một câu như đuổi theo sóng cả. Nếu đã có thể sử dụng được nó trên con đường, thì khi gặp được tri âm ông biết phân biệt được cơ hội thích hợp, phân biệt được đúng với sai, và cùng chứng minh cho nhau. Ở chổ mà sự thật công ước áp đảo, với một con mắt, ông có thể cắt đứt hết mười phương, đứng sừng sững như đỉnh núi ngàn trượng.

Cho nên có câu nói, “Đại dụng hiện tiền, không còn qui tắc.” Có lúc coi một cọng cỏ như thân vàng mười sáu trượng (của Phật), có lúc coi thân vàng mười sáu trượng như một cọng cỏ. Thử nói xem bằng vào nguyên lý nào mà nói như thế? Xin thử nêu ra đây.

CỬ: Cuối mùa kiết hạ Thúy Nham dạy chúng rằng, “Cả một mùa hạ Thuý Nham đã nói chuyện với các huynh đệ. Thử nhìn xem lông mày của Thúy Nham có còn không?” Bảo Phúc nói, “ Kẻ làm giặc tâm trống không.” Trường khánh nói, “Sinh”. Vân Môn nói, “Quan”.

BÌNH: Người xưa học đạo sáng tham thiền chiều hỏi han, không có lúc nào là gián đoạn. Đến cuối hạ Thúy Nham lại dạy chúng như thế, song không khỏi quá đơn độc lừng lững. Quả là kinh thiên động địa. Thử nói xem, cả một kho lớn giáo lý, năm ngàn bốn mươi tám quyển, dù là nói tâm dạy tính, nói đốn nói tiệm, song có việc như vầy chăng? Một là vì nhân duyên thời tiết, song Thúy Nham quả thực là kỳ đặc. Coi thầy ta ăn nói như thế, thử nói xem ý của thầy ta cốt yếu là như thế nào? Cổ nhân đã buông một lưỡi câu, không bao giờ là hư giả cả. Luôn luôn có lý do để làm lợi cho người khác. Người ta phần đông hiểu lầm nói, “ Thanh thiên bạch nhật, Thúy Nham nói những lời không đâu vào đâu, không có chuyện gì lại vẽ chuyện. Cuối hạ lại tự trách lỗi lầm của mình, để khỏi bị người khác kiểm thảo.” May mà những lời này chẳng có gì đúng sự thật. Thứ kiến giải này đúng là diệt hết giòng giống Phật. Các bậc tông sư suốt các thời đại ra mặt với đời nếu không để dạy thiên hà thì hóa ra thành vô ích cả. Với mục đích gì? Đến mức này mà thấy rõ được thì mới biết rằng cỏ nhân quả là có cái khả năng đắt trâu của thợ cầy, đoạt cơm của kẻ đói. Người đời nay mỗi khi bị hỏi, bèn lo nhai nghiến chữ nghĩa, vin vào lông mày của Thuý Nham. Nhìn xem những người trong nhà của thầy ta hiểu ngay đường đi nước bước của Thúy Nham, thiên biến vạn hóa, chi li rườm rà, bất cứ chỗ nào họ cũng có chổ xuất thân cả. Cho nên họ mới có thể xướng họa như thế với Thúy Nham. Nếu như những lời của Thúy Nham không có gì là đăc biệt, thì việc gì mà Vân Môn, Bảo Phúc, Trường Khánh ba người phải ào ào xướng họa với thầy ta như thế?

Trường Khánh nói, “Kẻ làm giặc tâm trống không? Chỉ lời nói này thôi mà sau này đã gây ra biết bao nhiêu là giải thích theo tri thức cảm quan! Thử nói xem ý của Bảo Phúc là như thế nào? Kỵ nhất là đừng dựa vào ngôn ngữ để tìm ra ý của vị cổ nhân này. Nếu như ông toan đưa ra kiến giải thoe tri thức cảm quan hay định khái niệm hóa, Bảo Phúc sẽ móc mắt ông ra. Đâu có ai biết rằng lúc Bảo Phúc nói ra một “ chuyển ngữ”, là đã cắt đứt mất dấu chân của Thúy Nham rồi.

Trường Khánh nói, “Sinh”. Thiên hạ thường nói rằng thầy ta theo gót của Thúy Nham, cho nên mới nói “sinh”. May mà điều này chẳng đúng chút nào. Đâu có ai biết rằng lúc Trường Khánh nói “sinh” là thầy ta đưa ra kiến giải của riêng mình. Người nào cũng có chỗ xuất thân của mình cả. Nhưng mà tôi muốn hỏi ông, chỗ nào là chỗ sinh? Ginốg như thể là đối diện với một tay thành thạo đang múa Kim Cương Bảo Kiếm. Ai có khả năng phá được các kiến giải thông thường, cắt đứt được được mất thị phi, mới có thể thấy được cái chỗ mà Trường Khánh xướng họa với Thúy Nham.

Vân Môn nói, “ Quan” Quả thậtđặc sắc, có điều hơi khó tham thấu. Vân Môn thường dùng phương pháp một chữ Thiền mà dạy người ta, tuy rằng trong một chữ gom đủ cả ba câu. Thử nhìn cách thù xướng đối biện của vị cổ nhân này xem, quả nhiên là khác xa với người thời buổi này. Đây mới đúng là cách để nói ra một câu. Tuy rằng Vân Môn nói như thế, song ý của thầy ta quyết không phải là ở đây. Đã không ở đây, thì thử nió xem là ở đâu? Nếu như ông là một người mắt sáng,c ó khả năng chiếu cả trời đất, thì phải lung linh cả tám hướng chứ. Tuyết Đậu xỏ chữ “quan” của Vân Môn cùng với những lời của ba vị kia thành một chuỗi mà tụng ra.

TỤNG: 

Thúy Nham dạy chúng,

Ngàn xưa không đáp.

Chữ “quan” họa lại,

Mất tền thêm tôi.

Bảo Phúc hom hem

Uyển chuyển khó được.

Thúy Nham lăng xăng,

Rõ ràng lạ giặc.

Ngọc trắng không vết,

Ai biết thật giả?

Trường Khánh biết rõ,

Lông mày mọc dài.

BÌNH: Nếu như Tuyết Đậu mà không từ bi như thế, tụng ta cho người khác thấy, thì làm sao được gọi là thiện tri thức? Cổ nhân hành xử như vậy , nhất nhất đều là cực chẳng đã. Người học Thiền sau này thường hay bám víu vào ngôn ngữ, sinh ra kiến giải theo tri thức cảm quan, cho nên mới không thấy được ý của cổ nhân. Nếu như có một người hốt nhiên bước ra, lật đổ giường Thiền, hét tan đại chúng, mình cũng chẳng trách hắn được.Dù là thế đi nữa, cũng cứ phải thực sự đạt đến mức độ này mới được.

Khi Tuyết Đậu nói, “Ngàn xưa không đáp”, thầy ta chỉ muốn nói rằng nhìn xem lông mày của Thuý Nham có còn đó không. Có cái gì là đặc sắc đâu mà bảo là xưa nay không ai đáp được? Phải biết rằng cổ nhân mỗi khi thốt ra một lời hay nửa câu tuyệt nhiên không bao giờ sơ hốt đâu…Phải có đôi mắt nhìn rõ càn khôn mới có thể hiểu nổi. Tuyết Đậu nói ra một lời hay nửa câu, giống như Kim Cương Bảo Kiếm, như sư tử ngồi xổm trên mặt đất như lửa tóe ra từ đá lửa, như điện sấm sét. Nếu như không có mắt trên đỉnh đầu, làm sao mà thầy ta có thể thấy được cái cốt yếu của lời nói của Thúy Nham? Lời dạy của Thúy Nham đúng là xưa nay không ai đối đáp được. Còn hơn cả gậy của Đức Sơn và tiếng hét của Lâm Tế. Thử hỏi xem, chỗ vì người của Tuyết Đậu là ở chỗ nào? Ông hiểu câu nói, “ngàn xưa không đáp” này của Tuyết Đậu như thế nào?

“Chữ quan” họa lại, mất tiền thêm tội,” có nghĩa là gì? Dù cho ông có đôi mắt nhìn thấu quan này đi nữa, đến chỗ này ông cũng cứ phải trân trọng mới được. Thử nói xem, Thúy Nham mất tiền thêm tội hay là Vân Môn mất tiền thêm tội? Nếu như ông nhìn thấu được, tôi chịu ông là người có mắt đó.

“Bảo Phúc hom hem, uyển chuyển khó được. Phải chăng thầy ta hạ thấp mình? Nâng cao cổ nhân? Thử nói xem, Bảo Phúc hạ thấp chỗ nào nâng cao chỗ nào?” Thúy Nham lăng xăng, rõ ràng là giặc.” Thử nói xem thầy ta trộm cái gì mà Tuyết Đậu lại gọi Thầy ta là giặc? Tránh đừng có để bị lời lẽ của thầy ta ràng buộc. Đến mức độ này phải có khả năng riêng của mình thì mới được.

“Ngọc trắng không vết.” Tuyết Đậu tụng Thúy Nham giống như ngọc trắng không có chút tì vết. “Ai biết thật giả?” Có thể nói là rất có ít người phân biết được. Tuyết Đậu đại tài cho nên mới xâu từ đầu tới đuôi thành một chuỗi được. Mãi tới khúc cuối mói nói, “Trường Khánh biết rõ, lông mày mọc dài.” Thử nói xem mọc ở chỗ nào? Mau tìm thử xem!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11647)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11971)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11122)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11361)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12077)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12573)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10776)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17999)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11738)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9961)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10187)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12362)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15357)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11256)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14339)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12119)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15384)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12013)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12425)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11196)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12097)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10628)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12567)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13181)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14851)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12701)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16588)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19679)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13118)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12676)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12276)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11867)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10910)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13548)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11964)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11853)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11647)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12778)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14532)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12627)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15672)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13637)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12915)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9883)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18027)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11182)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9088)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12192)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13064)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10323)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12207)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15326)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16618)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12230)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11493)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14282)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19717)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14161)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24622)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10702)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant