Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Tám Mươi Mốt: Dược Sơn Bắn Nai

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15692)
Tắc thứ Tám Mươi Mốt: Dược Sơn Bắn Nai

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 9

TẮC THỨ TÁM MUƠI MỐT

DƯỢC SƠN BẮN NAI

 

THÙY: Giựt cờ cướp trống, ngàn thánh không dò. Cắt đứt lầm lẫn, vạn cơ không đến. Không phải thần thông diệu dụng, chẳng phải bổn thể như thiên. Thử nói xem, bằng vào đâu mà đạt được sự kỳ đặc như vậy?

CỬ: Có ông tăng hỏi Dược Sơn, trên đất bằng cỏ thấp, có từng bầy nai, làm thế nào để bắn được con nai của loài nai? Dược Sơn nói, “Xem tên đây!” Ông tăng bèn ngã xuống. Dược Sơn nói, “Thị giả đâu kéo cái ngã chết này ra ngoài xem.” Ông tăng bèn đi. Dược Sơn nói, “Những kẻ chơi với đất bùn như thế này đến bao giờ mới dứt.”

Tuyết Đậu niệm rằng, “Ba bước tuy sống, năm bước phải chết.”

BÌNH: Công án này trong Tào Động gọi là “mượn sự mà hỏi.” Cũng gọi là “câu hỏi để biện chủ nhân.” Loại công án này được dùng để minh giải cơ biến hiện tiền. Bình thường thì nai rất dễ bắn. Chỉ có con nai này thường mài sừng của nó nơi vách đá, cho nên sừng của nó sắc như thể kiếm. Nó dùng chính thân của mình ra mà che chở bầy nai khiến cho cọp cũng không đến gần được.

Ông tăng này cũng rất là tỉnh táo dẫn việc đó ra để hỏi Dược Sơn để minh giải đệ nhất cơ.Dược Sơn nói, “Xem tên đây!” Đúng là bậc tông sư chuyên gia, kỳ đặc hết sức, giống như đá lửa điện chớp.

Há không nghe chyện lúc Tam Bình mới đến tham kiến Thạch Củng, Thạch Củng vừa thấy Tam Bình đến đã làm ra vẻ như đang giương cung rồi nói, “xem tên đây!” Tam Bình vạch ngực ra nói, “Đây là tên giết người hay tên cứu người?” Thạch Củng nói, “Ba mươi năm nay một cây cung hai mũi tên, hôm nay chỉ bắn được một nữa thánh nhân.” Rồi bèn bẻ cung tên đi.

Sau đó Tam Bình thuật lại cho Đại Điên. Đại Điên nói, “Đả là tên cứu người thì tại sao còn phải dựa trên cây cung mà phân biện?’ Tam Bình không nói gì được. Đại Điên nói, “Ba chục năm sau muốn có người thuật lại lời này rất là khó.”

Pháp Đăng có bài tụng rằng, “Xưa có thầy Thạch Củng, gác cung tên ngồi đó. Cứ thế ba mươi năm, không có một người hiểu, kịp khi Tam Bình đến, cha con khế hợp nhau. Suy nghĩ cặn kẽ lại, họ bắn trên ụ đất.”

Sách lược của Thạch Củng cũng giống y như thể sách lược của Dược Sơn. Tam Bình có mắt trên đỉnh đầu cho nên chỉ trong một câu là trúng đích. Giống y như thể Dược Sơn nói, “Xem tên đây!” Ông tăng kia bèn giả dạng làm con nai ngã xuống. Ông tăng kia kể cũng là một chuyên gia, có điều có đầu mà không có đuôi. Ông ta đặt hầm bẫy toan bẫy Dược Sơn. Song làm sao được khi mà Dược Sơn là bậc chuyên gia, vẫn tiếp tục bức ông ta. Lúc Dược Sơn nói, “Thị giả đâu kéo cái gã chết này ra ngoài xem” giống như thể thầy ta khai triển mặt trận của mình ra trước mặt. Ông tăng kia bèn bỏ đi. Đúng thì có đúng, có điều chưa thánh thoát và tay chân hãy còn dính dấp. Cho nên Dược Sơn nói, “ Những kẻ chơi với đất bùn như thế này đến bao giờ mới dứt.” Dược Sơn lúc ấy nếu không nói câu kết luận này, có lẽ đã bị thiên hạ phê bình suốt thiên cổ rồi.

Dược Sơn nói, “Xem tên đây!” Ông tăng kia bèn ngã xuống. Thử nói xem, đó có phải là hiểu hay không? Nếu bào là hiểu thì tại sao Dược Sơn lại bảo là những kẻ chơi với bùn gì đó. Điều này có vẻ ác hết sức.

Có ông tăng hỏi Đức Sơn, “Lúc người học cầm Mạc Da kiếm toan lấy đầu thầy thì như thế nào?” Đức Sơn đưa cổ ra rồi hét. Ông tăng nói, “Đầu thầy đã rụng rồi.” Đức Sơn cúi đầu quay về phương trượng. Nham Đầu hỏi một ông tăng,” Từ đâu tới?” Ông tăng nói, “Từ Tây Kinh tới.” Nham Đầu hỏi, “Kể từ sau nạn Hoàng Sào có còn thu kiếm được chăng?” Ông tăng nói, “Được”. Nham Đầu đưa cổ tới trước rồi hét. Ông tăng nói, “Đầu thầy đã rụng rồi.” Nham Đầu cười ầm lên. Những công án này đều là những cơ bẫy hổ, giống như công án này. Dược Sơn nhìn thấu ông tăng kia, cho nên tiếp tục bức tới mà thôi.

Tuyết Đậu nói, “Ba bước tuy sống, năm bước phải chết.” Ông tăng kia tuy rằng rất biết xem tên, cho nên mới nằm xuống. Dược Sơn nói, “Thị giả đâu kéo cái gã chết này ra ngoài xem.” Ông tăng bèn bỏ đi. Tuyết Đậu nói, “Chỉ e rằng ông ta không sống được ngoài ba bước. Nếu như lúc ấy ông ta nhảy ra ngoài được năm bước, người trong thiên hạ hẳn chẳng làm gì được ông ta.

Các bậc chuyên gia gặp nhau, cần phải có sự thay đổi ngôi chủ khách từ đầu đến cuối, không có gián đoạn, lúc ấy mới có phần tự do tự tại. Lúc ấy ông tăng kia đã không tiếp tục được từ đầu đến cuối, cho nên mới bị Tuyết Đậu phê phán. Cuối cùng Tuyết Đậu lại dùng lời của ông ta mà rụng rằng:

TỤNG

Nai của nai,

Ngài nhìn xem.

Bắn một tên,

Chạy ba bước.

Năm bước nếu sống,

Thành bầy đuổi cọp.

Mắt chính xưa nay cho thợ săn,

Tuyết Đậu lớn tiếng bảo xem tên!

BÌNH: “Nai của nai, ngài nhìn xem.” Các nạp tăng cần phải có mắt của con nai chúa có sứng của con nai chúa, phải có cơ quan phải có sách lược. Dù cho đó là mãnh hổ có cánh mèo rừng có sừng, con nai chúa vẫn giữ được thân mình không bị hại. Lúc ông tăng kia nằm xuống, có ý nói rằng, “Tôi chính là nai chúa.” Bắn một tên, chạy ba bước,” Dược Sơn nói, “Xem tên đây.” Ông tăng bèn nằm xuống. Dược Sơn nói, “Thị giả đâu kéo cái gã chết này ra ngoài xem.” Ông tăng này bèn bỏ đi. Hay lắm, nhưng mà ông ta chỉ đi được ba bước mà thôi.

“Năm bước nếu sống, thành bầy đuổi cọp.” Tuyết Đậu nói, “Chỉ e rằng trong vòng năm bước là ông ta chết mất. Nếu như lúc ấy mà ông ta có thể nhảy ra được năm bước mà vẫn còn sống, thì ông ta hẳn đã có thể kết hợp được bầy lũ để mà đuổi cọp rồi.” Sừng của con nai chúa sắc bén như mũi thương, ngay cả cọp trông thấy cũng phải sợ mà bỏ chạy. Đây là con nai chúa, thường lãnh đạo bầy nai đuổi cọp qua núi khác.

Cuối cùng Tuyết Đậu tụng Dược Sơn ngay lúc ấy có chỗ xuất thân “Mắt chính xưa nay cho thợ săn.” Dược Sơn giống như một thợ săn biết bắn, còn ông tăng kia thì giống như con nai. Tuyết Đậu lúc ấy nhận thượng đường thuật lại lời này, cuối cùng kết luận trong vài lời, nói lớn một câu rằng, “Xem tên!” Lúc ấy kẻ đứng hay người ngồi gì cũng chẳng động đậy được.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11697)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12022)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11167)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11400)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12127)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12610)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10833)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18055)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11780)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 10008)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10232)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12416)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15417)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11292)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14410)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12171)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15460)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12062)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12480)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11263)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12140)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10680)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12599)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13243)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14926)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12756)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16643)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19748)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13186)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12734)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12339)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11924)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10985)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13595)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 12012)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11923)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11699)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12817)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14604)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12681)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15751)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13692)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12975)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9939)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18080)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11242)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9126)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12258)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13106)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10357)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12247)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15397)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16680)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12302)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11573)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14348)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19792)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14228)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24709)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10743)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant