Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Hai Mươi Bốn: Qui Sơn Và Lưu Thiết Ma

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 16097)
Tắc thứ Hai Mươi Bốn: Qui Sơn Và Lưu Thiết Ma

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 3

TẮC THỨ HAI MƯƠI BỐN

QUI SƠN VÀ LƯU THIẾT MA

 

THÙY: Đứng trên đỉnh cao vút, ngoại ma không thấy được. Đi dưới đáy biển sâu, mắt Phật nhìn không ra. Dù cho là có mắt như sao rơi, có trí như điện chớp, cũng khó mà tránh được khỏi giống con rùa thiếng kéo đuôi. Đến chỗ này rồi phải làm gì mới khế hợp. Xin nêu lên thử xem.

CỪ: Lưu thiết Ma đến gặp Qui Sơn. Qui Sơn nói, “Con bò cái kia đến đó hả!” Lưu Thiết Ma nói, “Ngày mai trên Đài Sơn[10] có trai hội lớn, hòa thượng có đi không?” Qui Sơn nằm xuống, Lưu Thiết Ma bèn bỏ đi.

BÌNH: Ni lưu Thiết Ma như đá lửa như điện chớp. Vừa toan nghị luận là (các ông lập tức) tang thân thất mạng ngay. Trong đạo Thiền một khi đã đến chỗ khẩn yếu, đâu còn có nhiều việc gì nữa? Các tay chuyên gia gặp nhau, giống y như thể thấy sừng bên kia tường biết ngay là có bò, thấy khói bên kia núi biết ngay có lửa. Khi đẩy thì họ động, khi dồn thì họ xoay quanh.

Qui Sơn nói, “Trăm năm sau, ta sẽ xuống núi làm con trâu trong nhà vị thí chủ kia. Bên hông trái sẽ có viết năm chữ, “ Qui Sơn tăng, tôi đây.” Đúng vào lúc ấy, gọi là Qui Sơn tăng mới đúng hay gọi là trâu mới đúng?”Người bây giờ mà bị hỏi như thế, lập tức lúng túng không biết phải làm thế nào.

Lưu Thiết Ma tham Thiền đã lâu, cơ trí sắc bén, cho nên người ta mới đặc biệt hiệu cho là Lưu Thiết Ma. Lưu Thiết Ma dựng một thảo am cách nơi của qui Sơn mười dặm. Một hôm đến thăm Qui Sơn. Qui Sơn thấy Ni đến bèn hỏi, “Con bò cái kia đến đó hả.” Lưu Thiết Ma nói, “Ngày mai trên Đài Sơn có trai hội lớn,hòa thượng có đi không?” Qui Sơn nằm xuống. Lưu Thiết Ma bèn bỏ đi. Các ông thử nhìn xem, họ giống như thể đối thoại, song đã không phải là Thiền tại cũng chẳng phải là đạo. có thể gọi là vô sự được chăng?

Qui Sơn cách xa Đài Sơn có đến mấy ngàn dặm. Lưu Thiết Ma tại sao lại muốn Qui Sơn đi dự trai hội? Thử nói xem ý của Ni là gì? Bà lão này hiểu lối nói chuyện của Qui Sơn, tơ đến sợi đi, một buông một nắm, hỗ tương xướng họa như thể hai tấm gương phản chiếu nhau, mà không có hình ảnh gì để quán cả. tiếp nhau từng phương tiện, phù hợp nhau từng câu nói.

Người thời nay bị thúc ba lần mà cũng chẳng quay đầu, song bà lão này chẳng hề bị lừa chút nào. Đây tuyệt nhiên không phải là thiên kiến nằm trong sự thật công ước, giống như gương sáng trên khung, ngọc sáng trong tay, Hồ đến Hồ hiện, Hán đến Hán hiện. Bởi vì Lưu Thiết Ma biết rằng có sự việc hướng thượng trong ấy, cho nên bà ta mới hành sự như vậy,

Hiện giờ chỉ nên hiểu đó là vô sự. Ngũ Tổ Pháp Diễn hòa thượng nói, “Đừng coi hữu sự là vô sự, hữu sự thường thường do nơi vô sự mà nẩy sinh.” Nếu như các ông tham thấu được, các ông sẽ thấy rằng họ nói chuyện với nhau như thể những người bình thường vậy. Đa số người ta thường bị trở ngại bởi ngôn ngữ, cho nên mới không hiểu. Chỉ có kẻ tri âm mới có thể hiểu họ được.

Giống như Càn Phong dạy chúng rằng, “Nêu lên thì không được nêu lên hai, buông bỏ một cái là các ông sẽ rơi vào cái thứ hai”. Vân Môn bước ra khỏi đồ chúng nói, “ Hôm qua có một ông tăng từ Thiên Thai đến song lại đi về Nam Nhạc.” Càn Phong nói, “Điển tòa hôm nay không được tụ tập tăng chúng nữa.”

Quan sát xem Qui Sơn và Lưu Thiết Ma, lúc buông thì cùng buông, lúc nắm thì cùng nắm. Trong tông môn của Qui Ngưỡng đây gọi là phương pháp “cảnh trí”. Gió thổi bụi bay, tất thấy được đầu mối. Đây cũng gọi là “cách thân cú”. Có nghĩa là ý thông mà ngôn ngữ bị gián cách. Đến chỗ này rồi thì các ông phải biết xoay trở phải trái, như thế thì mới là tay chuyên gia.

TỤNG

Từng cưỡi ngựa sắt vào thành cao,

Chiếu xuống truyền rằng sáu nước yên.

Vẫn cầm roi vàng hỏi khách về,

Đêm sâu ai cùng đi lối vua?

BÌNH: Tụng của Tuyết Đậu các nơi đều cho là cực tắc. Trong một năm bài tụng ,bài này là đầy đủ luận lý nhất, và cũng là bài có thể cách phân minh tuyệt diệu nhất. “Từng cưỡi ngựa sắt vào thành cao” là để tụng việc Lưu Thiết Ma đến. “ Chiều xuống truyền rằng sáu nước yên,” là để tụng việc Qui Sơn hỏi. “Vẫn cầm roi vàng hỏi khách về”, là để tụng lời Lưu Tuyết Ma nói rằng, “Ngày mai ở Đài Sơn có trai hội lớn, hòa thượng có đi dự không?” “Đêm sâu ai cũng đi lối vua,” là để tụng việc Qui Sơn nằm xuống, Lưu Tuyết Ma bỏ đi.

Tuyết Đậu có cái tài này, chỗ cấp thiết thì tụng cấp thiết, chỗ hòa hoãn thì tụng hòa hoãn. Phong Huyệt cũng đã từng bình (công án này), và cũng cùng một ý với Tuyết Đậu. Bài tụng này được người các nơi ca ngợi: “Đứng trên đỉnh núi cao, ngoại ma không thấy được. Đi dưới đáy biển sâu, mắt Phật nhìn không ra.”

Nhìn họ xem, một người nằm xuống một người liền bỏ đi. Nếu vẫn cứ loanh quanh thì chẳng bao giờ tìm ra lối. Ý của bài tụng của Tuyết Đậu thật là tuyệt. Đúng là đã từng cưỡi ngựa sắt vào thánh cao. Nếu như thầy ta không có chỗ chứng đắc ( giống như họ) làm sao thầy ta có thể như thế được? Thử nói xem, thầy ta đắc được ý gì? Há không nghe chuyện có ông tăng hỏi Phong Huyệt,“ Qui Sơn nói, “Con bò cái kia đến đó hả?” có nghĩa là gì?” Phong Huyệt nói, “Trên từng mây trắng rồng vàng nhảy.” Ông tăng hỏi, “Lúc Lưu Thiết Ma nói, “Ngày mai trên Đài Sơn có trai hội lớn, hòa thượng có đi dự không?” có nghĩa là gì?” Phong Huyệt nói, “Giữa lòng sóng biếc ngọc thỏ kinh” Ông tăng hỏi, “Lúc Qui Sơn nằm xuống có nghĩa là gì?” Phong Huyệt nói, “ Già nua lụ khụ ngày vô sự, nằm yên ngon giấc với núi xanh.” Ý này cũng giống với ý của Tuyết Đậu.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15053)
Đại chánh tân tu số 0070, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13498)
Đại chánh tân tu số 0068, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15197)
Đại chánh tân tu số 0069, Hán dịch: Pháp Hiền, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16587)
Luận Du Già Sư Địa (Phạn: Yogacàrabhùmi – sàtra), tác giảBồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664)... Nguyên Hiền
(Xem: 13265)
Đại chánh tân tu số 0067, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12627)
Đại chánh tân tu số 0066, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13515)
Đại chánh tân tu số 0065, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13489)
Đại chánh tân tu số 0064, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12808)
Đại chánh tân tu số 0063, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 12106)
Đại chánh tân tu số 0063, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12028)
Đại chánh tân tu số 0062, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12700)
Đại chánh tân tu số 0061, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11549)
Đại chánh tân tu số 0060, Hán dịch: Huệ Giản; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11833)
Đại chánh tân tu số 0059, Hán dịch: Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11203)
Đại chánh tân tu số 0058, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13340)
Đại chánh tân tu số 0057, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13225)
Đại chánh tân tu số 0056, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11632)
Đại chánh tân tu số 0055, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12225)
Đại chánh tân tu số 0054, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12395)
Đại chánh tân tu số 0052, Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12020)
Đại chánh tân tu số 0051, Hán dịch: Khuyết Danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12786)
Đại chánh tân tu số 0050, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12405)
Đại chánh tân tu số 0048, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12251)
Đại chánh tân tu số 0047, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12318)
Đại chánh tân tu số 0046, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12053)
Đại chánh tân tu số 0045, Hán dịch: Pháp Hiền, Thí Quang Lộc Khanh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11973)
Đại chánh tân tu số 0044, Hán dịch: Khuyết Danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11266)
Đại chánh tân tu số 0043, Hán dịch: Huệ Giản; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11407)
Đại chánh tân tu số 0042, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12408)
Đại chánh tân tu số 0041, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12498)
Đại chánh tân tu số 0040, Hán dịch: Ðàm Vô Sấm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12030)
Đại chánh tân tu số 0039, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12998)
Đại chánh tân tu số 0038, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12097)
Đại chánh tân tu số 0037, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12642)
Đại chánh tân tu số 0036, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13051)
Đại chánh tân tu số 0035, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13998)
Đại chánh tân tu số 0034, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12770)
Đại chánh tân tu số 0033, Hán dịch: Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14902)
Đại chánh tân tu số 0032, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11968)
Đại chánh tân tu số 0031, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12207)
Đại chánh tân tu số 0030, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12917)
Đại chánh tân tu số 0029, Hán dịch khuyết danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12796)
Đại chánh tân tu số 0028, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14826)
Đại chánh tân tu số 0027, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12798)
Đại chánh tân tu số 0022, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15438)
Đại chánh tân tu số 0021, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12624)
Đại chánh tân tu số 0020, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13253)
Đại chánh tân tu số 0018, Hán dịch: Pháp Thiên; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14293)
Đại chánh tân tu số 0017, Hán dịch: Chi Pháp Ðộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15607)
Đại chánh tân tu số 0016, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13771)
Đại chánh tân tu số 0015, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13168)
Đại chánh tân tu số 0014, Hán dịch: Sa Môn An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc và Tâm Hạnh
(Xem: 13604)
Kinh Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0006) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12514)
Kinh Phật Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0005) - Bạch Pháp Tổ; Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12110)
Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự (Đại Chánh Tân Tu số 0004) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12937)
Kinh Phật Tỳ Bà Thi (Đại Chánh Tân Tu số 0003) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13031)
Kinh Thất Phật (Đại Chánh Tân Tu số 0002) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13263)
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta, làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin; không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta... HT Thích Hành Trụ dịch
(Xem: 21375)
Thiện Ác Nghiệp Báo (Chư Kinh Yếu Tập) Đại Chánh Tân Tu số 2123 - Nguyên tác: Đạo Thế; Thích Nguyên Chơn dịch
(Xem: 143898)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant