Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 6 Sám Hối Tất Yếu

30 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7057)
Chương 6  Sám Hối Tất Yếu

BÁT QUAN TRAI GIỚI THẬP GIẢNG
八 關 齋 戒 十 講
Pháp -sư Diễn Bồi soạn
Thích-Thiện-Huệ dịch Việt

Chương 6 
Sám Hối Tất Yếu 

 
Các pháp sự trong Phật giáo phần đông đều bắt đầu bằng lễ Sám Hối, đặc biệtQuy YThọ Giới lại càng không thể thiếu phần Sám Hối. Người sơ phát tâm quy y Tam Bảo, nếu thực tâm muốn trở thành một người mới mẻ tu Phật, mà không chịu đúng pháp sám hối, vẫn mang đầy thói hư tật xấu cũ vào cửa Phật, thì không sao thấm nhuần được đạo pháp, để trở thành một người theo Phật hoàn toàn mới. Vì cho dù trên hình thức đã theo Phật, song tội lỗi chất chứa nơi thân chướng ngại cho sự huân tu Phật pháp, cho nên trước tiên phải thành khẩn thiết tha sám hối, sau đó mới quy y hay thọ giới

Chẳng những bó buộc phải sám hối trước khi quy y hay thọ giới, mà sám hối vẫn có tánh cách quan trọng ngay sau khi quy ythọ giới rồi, bởi vì hạng phàm phu chúng ta dù có cẩn thận đến đâu đi nữa, hay vô cùng tôn trọng các giới đã thọ, song có mấy ai dám bảo đảm rằng mình không hề phạm các giới đã thọ. Phàm phu vẫn là phàm phu, đôi khi không tránh được phiền não vọng khởi, rồi không chế ngự được mình mà phạm giới, khiến thân tâm ô nhiễm. Nếu muốn khôi phục sự thanh tịnh, còn cách nào hơn sự sám hối. Vì vậy, Phật pháp rất coi trọng pháp Sám Hối. Bất cứ ai muốn vào đạo Phật hay đã vào rồi, đều phải hành pháp Sám Hối, để duy trì sự thanh tịnh của thân tâm, và khỏi bị chướng ngại khi tu học Phật. 

Tánh chất quan trọng của Sám Hối chúng ta đã rõ rồi, nhưng Sám Hối nghĩa là gì? Phạm ngữSám Ma Tỳ, gọi tắt là Sám Ma. Trung Quốc dịch là Yểm Ly (chán bỏ), hoặc Cải Hối. Có người giải thích Sám là đầu, Hối là cúi xuống, có nghĩa là “cúi đầu chịu tội”. Trong Phật pháp cũng vậy, những người vi phạm giới luật, chỉ còn biết thuận theo đạo pháp, cúi mình dưới chân Tam Bảo, chân thành thiết tha sám hối, biểu lộ từ nay về sau không dám làm các chuyện như vậy nữa. Có vậy mới là thành tâm sám hối

Lại có người giảng như vầy: Sám là chỉ cho bạch pháp, còn Hối là hắc pháp. Hắc pháp là các tội ác, nên hối cải không được tái phạm. Bạch pháp là các thiện pháp, nên cần cầu và đúng pháp thực hành. Còn có nghĩa như sau: Sám là sự tu học kể từ nay, trước kia bỏ bê không tu học các thiện pháp, từ nay trở đi thệ nguyện tinh tiến dõng mãnh tu học không ngừng. Hối là sự sửa đổi về sau, trước kia từng làm biết bao việc bất thiện, từ nay về sau thệ nguyện tha thiết, thực lòng sửa đổi. Theo hai cách giảng trên, chúng ta có thể thấy rằng: Sám Hối đủ cả hai phương diện tiêu cựctích cực. Bỏ ác là mặt tiêu cực, hưng thiện là mặt tích cực. Phải bỏ ác hưng thiện như vậy mới là ý nghĩa cụ thể của Sám Hối

Còn có một điểm rất quan trọng của sám hối, đó là phơi bầy các lỗi của mình, bộc bạch các tội đã gây, không dám che đậy chút nào. Như vậy rồi còn phải đoạn trừ tâm tương tục, ăn năn chán ghét các tội lỗi tự gây, tuyệt đối xả bỏ không bao giờ tái phạm. Ấn Thuận Luật Sư nói: “Quy chế sám hối của Phật pháp phải bày tỏ trước đại chúng hết mọi lỗi lầm, chịu sự xử phạt của Tăng đoàn. Trải qua một phen chân thành thống thiết sám hối, thanh tịnh mới phục hồi. Như trong bình có độc, phải đổ hết chất độc, súc bình cho sạch, mới có thể đựng vị quý được. Như vải dơ, trước tiên dùng tro hoặc xà bông tẩy cho sạch, sau đó mới có thể nhuộm. Cho nên phải như pháp sám hối mới có thể trì luật thanh tịnh và khiến các động cơ không thuần dần dà hợp với Luật”. Vì vậy, phát tâm sám hối phải thẳng thừng bày tỏ hết mọi tội lỗi

Chính do như vậy mà có người nói: Phạn ngữ vốn gọi là A Bát Để Đề Xá Na. A Bát Để dịch là “tội”, Đề Xá Na dịch là “nói”; có nghĩa là “nói tội”. Ý chỉ người học đạo nếu vi phạm giới luật không nên che giấu, mà phải thành thật bày tỏ với đại chúng, cầu xin đại chúng chuẩn hứa cho mình được sửa đổi. Bao giờ được đại chúng chấp thuận thì tội lỗi đó được tiêu trừ. Hơn nữa, nhờ oai đức của đại chúng khiến họ đối với tội lỗi sanh tâm sợ sệt không còn dám phạm nữa. Ngài Luật Sư Ấn Thuận nói: “Quy tắc của giới luật không ở nơi một người, ở nơi đại chúng… Người học đạo nên theo chân tinh thần của cổ thánh, phát lồ tội lỗi, không dám che giấu, không dám tái phạm, để thân tâm được thanh tịnh, thừa thọ vô thượng pháp vị”. 

Công khai bộc bạch hết mọi tội lỗi, điều này không phải dễ làm. Bởi tâm lý chung của mọi người không muốn người khác biết được lỗi mình. Hoặc giả nếu tội nhỏ có thể thố lộ riêng cho những người thân, còn nếu tội nặng cho đến vợ chồng, cha mẹ cũng không dám nói. Cũng bởi họ biết tội lỗi là chuyện mất thể diện, hại danh dự. Vì vậy mà kẻ phạm tội nhiều, người nhận tội ít do tại nguyên nhân này. Họ nào biết chính vì vậy mà cứ đắm mãi trong hố sâu tội lỗi không có ngày ra. 

Đại Sư Linh Phong Ngẫu Ích rất khẩn thiết bảo với những người không dám phát lồ tội lỗi: “Người ta khi tạo tội thực đang làm ác mà không biết xấu hổ. Nay phát lồ trước mọi người, đó là điều thiện, lại cho là xấu hổ. Cam lòng giữ ác mà tránh điều thiện, dần dà thành ác trong ác, vĩnh viễn không có ngày ra, điên đảo ngu si, còn có gì hơn đây nữa?” Không làm chuyện ác thì muốn mọi người biết. Nhưng khi làm ác, do vì phiền não xung động, chẳng còn biết xấu hổ, có can đảm làm quấy. Đợi đến lúc chuyện ác đã rồi, biết rõ đó không phải là việc đúng, nhưng vì thể diện, nên che giấu không chịu tiết lộ với ai. Nào hay, vì không dám phơi bày tội ác nên cội gốc tội ác không sao thanh tịnh được! Như vậy, chẳng phải là điên đảo hay ngu si sao? 

Sám Hối lấy gì làm thể? Lấy tàm quý làm thể, vì vậy có thuyết cho Sám gọi là tàm, Hối gọi là quý. Người ta sở dĩ tạo ác, do bởi không đủ tâm tự giác đạo đức, lại bị tâm vô tàm vô quý sai sử, nên vô tình tạo tội tày trời, song con người vẫn có nhân tính, nên sau khi làm điều lầm lẫn, đôi khi tự vấn lương tâmcảm thấy bất an trong lòng, hoặc cảm thấy mình không phải đối với cha mẹ, sư trưởng, hoặc tự trách mình vì sao lại gây ra những chuyện quấy như vậy? Phải biết lúc đó, nhờ tâm tàm quý dõng hiện tự nhiên sanh tâm cầu sám hối, cho rằng nếu không tha thiết cầu sám hối, từ rày về sau khó mà làm người. Người ta ở thế giới đầy tội ác này đôi khi có thể chiến thắng được tội ác đều do sức mạnh trọng thiện khinh ác của tàm quý

Tàm quý có nhiều đối tượng khác nhau, nên sức phát sanh tàm quý cũng có sai biệt. Giả sử bạn có tâm tàm quý đối với thầy bạn, biết việc này là quấy, đối với thầy bạn thực không phải, nên khi thấy thầy bạn, bạn tự dưng không dám làm các chuyện quấy, nhưng vẫn có thể làm quấy khi không thấy thầy bạn. Như vậy là sức tàm quý còn yếu. Giả sử bạn đối với Trời Phật phát tâm tàm quý, cho rằng nếu mình làm việc ác, tuy người khác không biết, nhưng Trời Phật đều thấy rõ, làm sao bạn dám làm chuyện không phải đối với trời Phật. Như vậy, cứ nghĩ đến trời Phật thì không dám làm ác. Nhưng hễ quên đi hay không nghĩ đến thì vẫn làm ác. Như vậy, sức tàm quý của bạn vẫn chưa đủ mạnh. 

Tàm quý thực sự mạnh và đủ sức chính là tâm tàm quý đối với tự thân, vì thường cho rằng ta với Phật vốn đồng một giác tánh, mà giác tánh của chư Phật đã từ trong muôn lớp phiền não trùng điệp bủa vây, chiếu phá hiển hiện ra, thành vị Thánh giác cao tột ở thế gian; vậy mà ta giờ vẫn là một gã phàm phu chịu sanh tử, chẳng những chưa thể tịnh hóa được giác tánh, mà còn điên đảo tạo bao ác nghiệp, đối trước chư Phật, xét lại tự thân sao khỏi thẹn thùng? Một niệm tàm quý tâm này hiện khởi, liền lập chí sửa đổi con người, không chỉ sửa sai mọi lỗi lầm trong quá khứ, còn quyết tâm không tái tạo mọi ác nghiệp; nhờ vậy, dần dà khai mở giác tánh sẵn có nơi mình mà đạt được quả Chánh Giác. Như vậy, người nào tự biết nhân cách tôn nghiêm thì có thể khiến tâm tàm quý lìa ác hướng thiện kia hoạt động hữu hiệu, sửa các điều quấy, tu các pháp lành. 

Tàm quý sám hối là sự tu trì quan trọng của người học Phật, nó quan hệ vô cùng đến sự thanh tịnh thân tâm. Cho nên người học Phật phải coi trọng pháp này. Nếu chúng ta niệm niệm tàm quý, tức chính là niệm niệm tu trì trang nghiêm thanh tịnh, đâu đến nỗi phạm giới hay tạo ác, và căn lành công đức của ta cũng được tăng trưởng trong niệm niệm. Đồng thời phải biết, các tội ác ẩn giấu trong tâm, nếu không do tâm tàm quý khởi sức sám hối, ắt nội tâm không bao giờ được an lạc. Nên trong Giới Kinh nói: “Có tội nên sám hối, sám hối ắt thanh tịnh”, hoặc nói: “Có tội nên sám hối, sám hối ắt an lạc”. Từ tâm tàm quý sanh sám hối, hiệu lực vô cùng như chúng ta đã thấy. 

Chúng ta phát tâm học Phật, không phải để cầu tiêu khiển, mà để mong cầu Thánh Quả, song Thánh Quả không phải chỉ mong cầu là được, phải cầu bằng sự thực tiễn thực hành. Sự thực hành không ngoài hai phương diệnđoạn áchành thiện. Nếu ác pháp không đoạn trừ, thiện pháp ắt khó tiến tu. Song phương tiện hay nhất để đoạn trừ ác pháp không gì hơn sám hối. Kinh Lục Môn Đà Ra Ni nói: “Các ma nghiệp ở nơi ta nếu không sám hối trước, ắt không sao phát tâm duyên Vô Thượng Giác, cho nên mọi tội lỗi cần phải sám hối trước”. Một số người không chịu công phu sám hối, vì mắc bệnh cho rằng tội mình nhẹ không cần sám hối, hoặc đối với tội ác không chút bố úy. Thực ra đến tội nhẹ cũng không nên coi thường. Hôm nay làm một chút, mai làm thêm chút nữa, tích thiểu thành đa, lâu dần ác nhuộm đầy tâm, sao lại không sợ? Há lại không cần đến sám hối hay sao? 

Do đó, tất cả các hạnh bất thiện do ta tạo từ quá khứ, bất kể hiện phát sanh, hay chưa sanh, giờ đây phát tâm thọ Bát Giới, phải tận tình phát lồ tội ác của mình, khóc mà khẩn cầu pháp diệt tội. Kinh Tăng Nhất A Hàm nói: “Nếu thọ Bát Quan Trai, trước tiên phải sám hối các tội tạo từ trước, sau đó mới thỉnh thọ giới pháp”. Chỉ có pháp sám hối như vậy mới có thể đạt được lợi ích của sự cầu giới. Bởi vì giới pháp vốn thanh tịnh, nếu tâm địa mình bất tịnh làm sao lãnh thọ được giới pháp thanh tịnh này? Có điều khi cử hành pháp sám hối, phải chí thành tận đáy lòng quyết cải đổi các lỗi xưa, triệt để tịnh hóa thân tâm mới tiêu trừ được mọi nghiệp chướng từ vô thỉ. Nếu chỉ bằng hình thức bề ngoài sám hối thì không sao tiêu trừ được tội nghiệp. Điều này cần phải chú ý. 

Chư vị đến đây thọ Bát Trai Giới, mỗi lần truyền giới, mở đầu tôi luôn luôn dạy chư vị sám hối: “Con tên… nếu thân nghiệp bất thiện, nếu khẩu nghiệp bất thiện, nếu ý nghiệp bất thiện, bởi do tham dục, sân khuểngu si. Nếu đời nay, nếu đời trước có tội như vậy, hôm nay thành tâm sám hối, thân thanh tịnh, khẩu thanh tịnh, tâm thanh tịnh thọ hành Bát Giới”. Tuyên đọc lời sám hối này, chúng ta có thể hiểu rõ: tất cả tội nghiệp của chúng sanh đều do ba nghiệp thân, ngữ, ý tạo thành, như sát sanh, trộm cắp là động tác của thân tạo thành tội ác, còn nói dối, nói lời hai chiều… là do lời nói tạo thành nghiệp tội. Các hoạt động nội tâm hướng ác là do nơi ý nghiệp phát sanh. Lìa các hoạt động của ba nghiệp thân, khẩu, ý, còn tội ác nào đáng kể nữa. 

Đã rõ mọi tội ác đều do nhân duyên ba nghiệp sanh ra, hiện tại muốn sám hối thanh tịnh, đương nhiên phải từ nhân duyên ba nghiệp khởi sám mới có thể khiến tội nghiệp tiêu trừ thanh tịnh, nên phải cần dùng ba nghiệp cầu sám hối. Trước khi sám hối phải đủ tàm quý, tàm quý từ tâm sanh, lấy ý nghiệp làm nhân, lễ bái là thân, xưng tán là miệng, hai nghiệp thân khẩu làm duyên. Dùng nhân duyên ba nghiệp như vậy, chí thành cầu diệt hết thảy tội chướng, ắt được tâm thanh tịnh, khẩu thanh tịnh, thân thanh tịnh. Sau đó mới thọ Bát Giới, như vậy, thân tâm mới lãnh thọ được giới pháp. Hết thảy tội chướng như ngôi nhà tối ngàn năm, tàm quý sám hối như ngọn đèn chiếu phá bóng tối ngàn năm. Cho nên quý vị thọ giới nếu sanh đại tàm quý, chân thật sám hối, chí thành lễ Phật, chẳng những mọi sự đều thành tựuba nghiệp đều được thanh tịnh

Quy chế sám hối của Phật giáo chẳng những phải chân thành sám hối khi thọ giới mà thường nhật cũng phải tùy thời sám hối. Nên người học Phật tốt nhất phải lập khóa sám hối hằng ngày, hoặc khi nhận thấy mình có lỗi là phải làm lễ sám hối chí thành, quyết không để cho chút tội ác nào tồn tại, làm nhiễm ô thân tâm. Có người không biết tầm quan trọng của sự tự mình sám hối, muốn thỉnh người khác sám hối cho mình. Điều này không thể được! Người khác sám hối giùm tuy cũng có công đức, nhưng như trong kinh nói: “Chỉ được một trong bảy phần. Nếu như tự mình sám hối, bao nhiêu công đức mình đều được cả”. Hơn nữa, sám hối không hạn chế thời gian nên lấy thành Phật làm kỳ hạn mà như pháp sám hối. Như vậy bao nhiêu tội chướng đều tiêu tan

Vua xứ Ma Kiệt ĐàTần Bà Ta La, một người Phật tử thuần thành, vì túc nghiệp đời trước nên bị con là vua A Xà Thế bắt nhốt trong ngục tối, tự biết mình nghiệp nặng, nhà vua chí thành sám hối, hướng về phía đức Phật thưa: “Đại Mục Kiền Liên là bạn con, xin thưa Phật từ bi cho Ngài đến truyền Bát Giới cho con”. Mục Liên tuân lời Phật, liền đến truyền giới cho vua mỗi ngày. Sau cùng, đức Phật từ nơi miệng phóng hào quang năm màu chiếu đến đảnh của vua. Nhà vua tuy bị giam cầm trong ngục, song vẫn thấy được đức Phật, đầu diện đảnh lễ, chứng quả A Na Hàm. Do tàm quý sám hối thọ Bát Quan Trai Giới, được công đức thù thắng khó nghĩ bàn. Phương pháp sám hối có rất nhiều cách. Nay chỉ nói công đức sám hối mà thôi.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2323)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 33675)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6681)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 6682)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 3930)
Tạo sao gọi là Phổ Môn? vì tự tính của mình phổ biến khắp hư không pháp giới, nên gọi Phổ Môn.
(Xem: 5189)
“Quán” là xem xét, “Thế Âm” là âm thanh của thế gian. Quán Thế Âmxem xét âm thanh thế gian, tiêu biểu cho lòng từ bi của Bồ-tát.
(Xem: 11518)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30537)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 8115)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12372)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 3346)
Một bài pháp được ban cho chư Tăng Ni ở International Mahayana Institute tại Boudhanath, Nepal, ngày 2 tháng 2, năm 1975. Nicholas Ribush hiệu đính.
(Xem: 35049)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 52430)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 13201)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 22069)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9739)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 3155)
"Niệm Phật" nghĩa là xưng danh hiệu - hay nhớ tưởng đến hình tướng, bản nguyện hay công đức của một đức Phật - như Phật Thích-ca hay Phật A-di-đà.
(Xem: 10514)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12944)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12914)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16374)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 14002)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14452)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9331)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11870)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11380)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 11641)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 12796)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 20843)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 17819)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32003)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12133)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11967)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 4385)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, Luận Tập Bộ Toàn; Kinh văn số 1678. Pháp Hiền dịch ra chữ Hán. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12869)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10455)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 16544)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 11885)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14913)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12143)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 17001)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 12822)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 52477)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 12775)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 10030)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 14627)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20289)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13905)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15523)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17630)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 16920)
Nhập Trung Quán Luận (PDF) - Tổ Sư Nguyệt Xứng - Chuyển dịch: Thích Hạnh Tấn, TN Nhật Hạnh
(Xem: 13576)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 12597)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12146)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13369)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12648)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 25775)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 14660)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 28480)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 10397)
"Tánh Không" (còn gọi là tính-không) là một từ ngữ liên hệ đến sự giảng dạy chính yếu của mọi ngành Phật giáo, nhưng ý nghĩa thật sự của từ ngữ nầy thường bị hiểu lầm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant