Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 9 Vấn Đề Liệu Giản

30 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6716)
Chương 9  Vấn Đề Liệu Giản

BÁT QUAN TRAI GIỚI THẬP GIẢNG
八 關 齋 戒 十 講
Pháp -sư Diễn Bồi soạn
Thích-Thiện-Huệ dịch Việt

Chương 9 
Vấn Đề Liệu Giản 

 
Hôm nay là lần thứ chín quý vị thọ Bát Giới, trong các lần trước tôi đã trình bày nhiều vấn đề liên quan đến Bát Trai Giới, hiện tại muốn cùng các vị liệu giản một số vấn đề, để các vị trong lòng không còn mối thắc mắc nào nữa về Bát Giới, an tâm phụng trì hàng tháng, không còn thối tâm. Nhờ vậy, các vị có thể dựa vào công đức này băng qua khổ hải, không còn đắm chìm trong sanh tử nữa. 

Thuở giờ đệ tử Phật được chia làm bảy chúng có giới pháp khác nhau, như hai chúng tại giaNgũ Giới: tỳ kheotỳ kheo niCụ Túc Giới, sa disa di nithập giới, thức xoa ma na có sáu pháp giới. Còn các vị thọ Bát Giới thuộc về chúng nào? Trước hết, phải biết Bát Giới là giới một ngày một đêm còn Ngũ Giới thuộc giới tận hình thọ (giới suốt đời). Nếu nói Bát Giới thuộc về hai chúng tại gia thì Bát Giới không phải là giới tận hình thọ nên tợ hồ không thuộc về hai chúng tại gia. Như thế phải quyết định thế nào? 

Bát Giới không phải là giới tận hình thọ nên nếu bảo người thọ giới này thuộc ưu bà tắc (di) ắt không khỏi có vấn đề xảy ra. Bởi thông thường có giới tận hình thọ mới gọi là ưu bà tắc/di. Song người thọ Bát Giới trên thân mang giới trọn ngày đêm, lại không có tên nào để chỉ, nhưng trong học phái Phật giáo có khi gọi hạng người này là Trung Gian Nhân (người ở giữa). Như Tát Bà Đa Luận nói: “Người thọ Bát Giới trong thất chúng, thuộc về chúng nào? Tuy không có giới chung thân nhưng có giới một ngày một đêm nên gọi là ưu bà tắc. Nếu gọi như vậy lại không có giới chung thân; nếu không gọi như vậy lại có giới một ngày một đêm, nên chỉ gọi là Trung Gian Nhân, tức ngoài thất chúng còn có Mộc Xoa Bát Giới”. Sự thật, người thọ Bát Giới cũng có thể gọi là ưu bà tắc, song phải thêm hai chữ “tịnh hạnh”, nên khi thọ giới pháp, danh xưng thích hợp nhất là “tịnh hạnh ưu bà tắc/di”. 

Phần trên đã nói người thọ Bát Giới nằm ngoài thất chúngdo nơi sự phân biệt của các học giả Hữu Bộ về giới tận hình thọ và giới nhật dạ; nhưng từ các kinh Hữu Bộ thành lập một phái riêng gọi là Thành Thật Luận Chủ, nói trong Thành Thật Luận, người hành Bát Giới không ngoài thất chúng, bởi vì Bát Giới thông suốt và thu nhiếp hai chúng tại gia. Lại xét lý do Phật chế Bát Giới thì chính vì tại gia chúng. Gần đây, Hoằng Nhất Luật Sư trong Phổ Khuyến Xuất Gia Nhân Thường Ưng Thọ Bát Giới Văn, tuy dựa theo kinh Dược Sư chứng minh người xuất gia cũng nên thường thọ Bát Trai Giới, nhưng người phát tâm thọ Bát Trai Giới dĩ nhiên đa số vẫn là người tại gia. Đồng thời, người thọ Bát Trai Giới đa số đã thọ Ngũ Giới (không thọ Ngũ Giới vẫn có thể thọ Bát Giới). Hiện tại, tuy chỉ thọ giới một ngày đêm, nhưng nhờ sự tuyệt dâm nên thắng hơn Ngũ Giới không tà dâm, do vậy gọi là tịnh hạnh ưu bà tắc/di. Các vị đều đã rõ, nếu thọ trì được đủ năm giới thì thật lý tưởng. Nhưng nếu cảm thấy không thể giữ nổi các giới tôn nghiêm này, đức Phật cũng từ bi phương tiện cho. Hơn nữa, cũng không quy định cứng ngắc, do người phát tâm tùy sức muốn thọ trì bao nhiêu giới thì thọ bấy nhiêu nên có bán phần, mãn phần, đa phần, thiểu phần, nhất phần ưu bà tắc/di khác nhau. Vấn đề hiện tại các vị thọ Bát Trai Giới có phải thọ toàn bộ hay không? Căn cứ theo phẩm Bát Giới của Thành Thật Luận: “Điều này cũng không nhất định, tự lượng sức mình thọ được bao nhiêu thì thọ bấy nhiêu, tuyệt đối không nên miễn cưỡng. Nếu cứng ngắc quy định phải thọ hết, giả như không thể nghiêm trì, há chẳng gây thêm tội sao?” Cho nên chúng ta thường nói: Đức Phật chế giới rất linh động, mục đích để giúp người giải thoát, không phải để làm khó người. 

Khi thọ Bát Quan Trai Giới phải thọ từ sáng sớm trong ngày là đúng pháp nhất, nếu để sau ngọ mới thọ thì không đắc giới. Nhưng trong Bà Sa Luận lại phương tiện nói: “Người phát tâm thọ giới giả sử nghĩ rằng ngày mai mình phải thọ giới, nhưng đến lúc đó, tự nhiên gặp chuyện phải lo, quên béng mất Bát Quan Trai, cho đến khi xong việc về nhà dùng bữa mới chực nhớ lại, vội đến thọ Bát Quan Trai Giới cũng có thể được. Nhưng điều này không những không thể coi là đương nhiên mà phải sanh tâm tàm quý, cho rằng mình quá lơ là, từ nay về sau không được làm thành lệ”. Nếu một lần như vậy, rồi từ đó trở đi cứ vậy mà làm thì thực trái với pháp. Mong các vị lưu ý điều này cho. 

Người thọ Bát Giới phải thọ nơi Truyền Giới Sư, dĩ nhiên Giới Sư phải là người xuất gia. Trong ngũ chúng xuất gia, chúng nào cũng làm Bát Giới Sư được, chỉ cần vị này thủ trì giới “không ăn quá ngọ”. Nhưng hiện tại lại phát sanh vấn đề, vạn nhất không có Tăng thì ta phải làm sao để thọ giới? Có phương tiện nào đặc biệt cho chúng ta thọ giới không? Có thể đối trước Phật, tự nguyện thọ hành Bát Giới, vẫn đắc giới như thường. Lỡ tượng Phật không có thì phải làm sao? Vẫn có thể thọ giới, nhất tâm hướng về không trung, trong tâm tưởng và miệng nói như vầy: “Con nay thọ trì Bát Quan Trai Giới”. Như vậy cũng vẫn đắc giới. Bởi vì Pháp Thân chư Phật biến khắp hư không, hành giả cứ dụng tâm chí thành, tâm cung kính, tâm ân trọng, tâm thanh tịnh mà cầu tất sẽ cảm ứng và được đắc giới

Thọ hành Bát Giới là chuyện đại công đức. Nhiều người phát tâm thọ giới này, đó là điềm lành. Vì như thế chẳng những chứng tỏ tâm người hướng nhiều về thiện, còn cho thấy Phật pháp được phổ cập hơn. Nhưng thêm một vấn đềphát tâm thọ một lúc nhiều người hay chỉ riêng một người thọ thôi? Hành Sự Sao trích dẫn kinh Thiện Sanh: “Thọ Bát Giới không được đông, chỉ riêng mình thọ”. Sở dĩ trong kinh nói “chỉ riêng một người thọ” vì để hành giả chuyên tâm nhất ý đến giới hạnh mình thọ, không để cho tâm niệm thuần khiết này bị các hỗn loạn khác làm động. Hiện tại, các vị thọ Bát Quan Trai Giới, trên tình lý thì không có gì hại, nhưng đối với Giới Luật thì không mỹ mãn, nhưng đó là biện pháp bất đắc dĩ, chỉ mong các vị bảo trì nghiêm túc, không nên gây ồn náo. 

Thọ hành Bát Giới dĩ nhiên là nhiều công đức, song hiện tại nếu có người trước kia làm việc cho chánh quyền, rồi vì nhiệm vụ mà từng giết hay đánh đập người khác, nay phát tâm học Phật, muốn đến cầu thọ Bát Trai Giới, thì có đắc giới hay không? Đối với vấn đề này có thể nói: “Bất kể quá khứ họ ác như thế nào, tạo tội đến đâu đi nữa, nay phát tâm cầu thọ Bát Trai Giới, chỉ cần chí thành khẩn thiết sám hối các nghiệp tội quá khứ thì vẫn thành tựu giới pháp. Nếu không chịu sự sám hối thì do các nghiệp tội sâu dày kia cản trở, nên có thọ giới cũng không thành tựu giới pháp”. 

Ngay bản thân người thọ giới cũng vậy, giả sử xưa nay thọ trì rất thanh tịnh, chưa từng động niệm phạm giới, nhưng gặp phải ác duyên đặc biệt bức phải bỏ giới, thử hỏi nên phương tiện xả như thế nào? Biện pháp lý tưởng và hay nhất đương nhiên là dùng vô số các phương tiện thiện xảo, trang nghiêm hộ trì, thà mất sanh mạng này quyết không bỏ các giới đã thọ. Còn như trong tình cảnh bất đắc dĩ, không xả giới không xong, muốn hy sinh tính mạng cũng không được, lúc đó đành phải phương tiện xả giới pháp. Khi xả giới pháp, chỉ cần một người chứng, nói rõ nhân duyên bất đắc dĩ phải xả giới là xong, không cứ phải xả giới trước chư Tăng, vì đó là bị ác duyên phải xả giới, đâu phải là ý mình muốn. 

Bị ác duyên bức phải xả hoặc hủy giới tuy vẫn là nghiệp tội, song không nặng vì không phải ý muốn của chính mình, nên khi thoát được ác duyên rồi, chí thành sám hối để trừ diệt tội lỗi, sao cho đến khi sám hối cảm được điềm lành. Lúc đó mới thỉnh cầu thọ lại giới, như vậy vẫn thành tựu giới pháp. Trường hợp có người không do ác duyên mà do tự phiền não nơi mình xung động khiến tâm ô nhiễm, hủy phạm giới pháp của Như Lai, tội người này nặng hơn người trước, khó lòng mà sám hối để được thọ giới lại. Vì vậy, phải trang nghiêm hộ trì các giới đã thọ. 

Người thọ giới phải thọ thọ trì giới thanh tịnh không được hàm hồ. Nhưng ở thế gian này, chuyện gì nói cũng dễ, làm mới khó, nhất là tịnh giới của Phật pháp lại càng không đơn giản như ta tưởng tượng nên Ấn Thuận Luật Sư nói: “Thọ giới thì dễ, giữ mới khó”. Như thọ Bát Trai Giới, chẳng những không được giết mà ngay đến đánh đập chúng sanh cũng không được. Có nhiều người quen thói đánh mắng người, nghĩ rằng hôm nay thọ giới nên tạm thời không đánh mắng, mai xả giới rồi thì ta tha hồ đánh mắng. Lối suy nghĩ này tuy hôm nay không gây tội, nhưng không thể bảo là trì giới thanh tịnh. Hoặc gặp chuyện gì xúc phạm đến ý mình, liền nổi lôi đình, hoặc có chuyện phiền não gì của mình mà gây thương hại đến tâm ý người khác. Như vậy bề ngoài xem có vẻ không phạm giới, nhưng trì giới kiểu này thật bất tịnh

Do vậy, đủ biết muốn được giới hạnh trang nghiêm thanh tịnh phải luôn luôn kiểm điểm ba nghiệp, thân khẩu không được làm mất oai nghi, ý không được vọng khởi tham, sân, si. Như vậy mới được gọi là trì giới thanh tịnh, cho nên tôi thiết tha mong các vị hộ trì tịnh giới như giữ tròng con mắt, để tránh được mọi tội ác. Người thọ Bát Trai Giới nếu có điều vi phạm giới pháp, không những không tăng tiến các giới khác, cũng không thể sanh trưởng các thiện pháp. Vì vậy, phải luôn cẩn thận như pháp trì giới

Giảng đến đây, tôi muốn kể một câu chuyện để chứng minh chuyện được mất của trì và không trì giới

Thuở Phật tại thế, một lần Ngài thuyết pháp tại Kỳ Viên tinh xá, có đông đủ chư Bồ TátThanh Văn chúng, xế chiều có hai vị tiên nhân đến trước Phật. Hai vị này do quá khứ từng thọ Bát Quan Trai Giới, nhờ công đức này được sanh cõi trời, thân phóng hào quang, nên khi họ tới, Kỳ Viên được hào quang chiếu sáng như ban ngày, khiến toàn tinh xá chiếu ánh sáng vàng như bảo quang. Đức Phật biết rõ lai lịch của họ, đợi họ phóng hào quang xong, Ngài tùy theo căn cơthuyết pháp cho họ. Hai người này nghe diệu pháp của chư Phật như uống nước cam lồ, tâm khai ý giải, đốn ngộ được đạo huyền, siêu xuất tam giới, nên đảnh lễ đức Phật, trở về cõi trời. Ngày hôm sau, A Nan bạch Phật: “Hai vị tiên nhân hôm qua đến cầu pháp Thế Tôn, oai tướng kỳ đặc, tịnh quang diệu mục hơn các ánh sáng thường thấy, không biết họ nhờ công đức gì mà được phúc báo thù thắng như vậy? Cúi mong Thế Tôn từ bi khai thị”. 

Đức Phật liền kể cho A Nan nghe: “Cách đây không lâu, vào thời kỳ Mạt Pháp của đức Phật Ca Diếp, có hai vị đạo sĩ tu cầu sanh Phạm Thiên, không những sanh cùng ngày, ở cùng nơi, lại là bạn cùng chí hướng. Nghe được sự lợi ích của Phật pháp, nhất là sự dễ tu tập của Bát Quan Trai Giớicông đức thù thắng của pháp tu đó nên hai vị tu sĩ tịnh hạnh này, vốn là dòng Bà La Môn, nhưng vì phát tâm cầu Bát Trai Giới, nên chẳng ngần ngại tìm đến chư Tăng cầu thọ giới pháp. Chư Tăng thấy hai người chí thành cầu giới nên như pháp truyền Bát Quan Trai Giới cho họ. Hai người tuy chí tâm cầu Bát Trai Giới, song tâm niệm mỗi người mỗi khác. Bà La Môn lớn muốn nương nhờ công đức Bát Trai Giới để được sanh thiên hưởng phúc báo. Bà La Môn trẻ lại muốn nhờ công đức Bát Trai Giới để kiếp sau trở lại thân người, làm vua ở thế gian

Sau khi thọ giới, ai trở về nhà nấy, nghiêm túc trì giới, nhất là giới “quá ngọ không ăn”. Nhờ công đức trì giới không phạm, anh Bà La Môn trẻ sau khi mạng chung, được như nguyện thác sanh về nhân gian làm vua một nước. Còn vị Bà La Môn lớn bị người vợ bức bách quấy rầy, nên phải chiều vợ ăn phi thời, phá hỏng giới “không ăn quá ngọ”. Do ác duyên này, không những không thành tựu ý nguyện sanh thiênđọa lạc vào đường súc sanh làm rồng. Từ đó, người và thú cách biệt, mỗi người chịu quả sướng khổ của riêng mình, không nhận ra nhau nữa. Một hôm, từ suối trôi vào một quả xoài. Người làm vườn vớt được, đem dâng cho người chủ vườn. Chủ vườn lại dâng cho người khác, rồi đến tay vua. Nhà vua thuở giờ chưa ăn xoài, nay thấy ngon miệng nên muốn ăn mỗi ngày, liền ra lệnh cho chủ vườn phải dâng xoài mỗi ngày. Nếu trái lệnh sẽ bị tội hình. Chủ vườn về nhà sợ hãi ngồi khóc, tiếng khóc vang đến tai rồng ở con suối này. Rồng liền hóa thành một ông lão đến hỏi chủ vườn vì sao lại khóc thảm như vậy? Chủ vườn kể rõ câu chuyện. Ông lão an ủi: “Nhà ngươi đừng buồn, lão sẽ giúp nhà ngươi có xoài mỗi ngày, có điều khi dâng xoài lên vua, bảo nhà vua rằng: Lão với nhà vua vốn xưa là bạn thân đồng tu Bát Quan Trai Giới. Nhà vua nhờ giữ giới thanh tịnh, lại cầu làm vua nên được như nguyện. Còn lão vì giữ giới không trọn, nên phải chịu thân rồng. Nay muốn thoát thân này, chỉ có cách tu trì Bát Trai Giới nên xin nhà vua vì lão mà tìm giúp pháp Bát Trai Giới để lão sớm thoát thân này”. Chủ vườn hôm sau dâng xoài và chuyển lời ông lão đến vua. Nhà vua nghe xong kinh sợ, ngặt nỗi thuở ấy Tam Bảo đã không còn ở thế gian, hà huống Bát Quan Trai Pháp! Nhà vua vấn kế trí thần, trí thần tuy nhiều mưu trí song cũng bó tay. Người cha ông ta thấy con có điều suy nghĩ mới hỏi lý do. Trí thần bày tỏ mọi sự, người cha bèn bảo đổi cột nhà xem có không. Quả nhiên trong cột có kinh Thập Nhị Nhân Duyên và kinh Bát Quan Trai. Trí thần mừng rỡ đem kinh dâng vua. Vua đem kinh đựng trong hộp vàng, đích thân đem giao cho rồng. Từ đó, rồng tại Long cung phụng hành Bát Giới, chuyên tu không nghỉ. Vua tại cung điện cũng nỗ lực tu Bát Giới, đến khi quả trổ, cả đôi bạn này đều sanh thiên hưởng phúc báo. Hai vị này trượng thừa công đức Bát Giới tối qua đến Kỳ Viên tinh xá, thỉnh ta thuyết pháp. Nghe pháp xong, chứng được Thánh Quả, từ nay không còn chịu sanh tử trong tam giới nữa”. 

Câu chuyện trên đây cho ta thấy công đức của Bát Giới, cũng như quả báo của sự trì giới không hoàn hảo, nhất nhất đều có quả báo. Các vị thọ Bát Giới nay đã hiểu rõ, ắt chuyện sanh thiên hưởng phúc hay giải thoát thoát sanh tử không còn là vấn đề nữa. Nên hãy chuyên tâm phụng hành như pháp, “không một sát na khởi tục niệm hay giải đãi thân tâm, cần tu lục niệm, hộ trì bát chi, nghiệp phiền não tận, tự nhiên thiện nghiệp khai phát. Nhân xuất thế do đây thành tựu”. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2322)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 33675)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6681)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 6682)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 3930)
Tạo sao gọi là Phổ Môn? vì tự tính của mình phổ biến khắp hư không pháp giới, nên gọi Phổ Môn.
(Xem: 5189)
“Quán” là xem xét, “Thế Âm” là âm thanh của thế gian. Quán Thế Âmxem xét âm thanh thế gian, tiêu biểu cho lòng từ bi của Bồ-tát.
(Xem: 11518)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30537)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 8115)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12372)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 3346)
Một bài pháp được ban cho chư Tăng Ni ở International Mahayana Institute tại Boudhanath, Nepal, ngày 2 tháng 2, năm 1975. Nicholas Ribush hiệu đính.
(Xem: 35048)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 52429)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 13200)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 22069)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9739)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 3155)
"Niệm Phật" nghĩa là xưng danh hiệu - hay nhớ tưởng đến hình tướng, bản nguyện hay công đức của một đức Phật - như Phật Thích-ca hay Phật A-di-đà.
(Xem: 10511)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12944)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12914)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16374)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 14001)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14452)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9331)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11870)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11380)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 11640)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 12796)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 20843)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 17816)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32003)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12131)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11967)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 4385)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, Luận Tập Bộ Toàn; Kinh văn số 1678. Pháp Hiền dịch ra chữ Hán. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12869)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10455)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 16543)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 11885)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14913)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12143)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 17000)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 12822)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 52477)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 12774)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 10030)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 14627)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20289)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13905)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15522)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17630)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 16920)
Nhập Trung Quán Luận (PDF) - Tổ Sư Nguyệt Xứng - Chuyển dịch: Thích Hạnh Tấn, TN Nhật Hạnh
(Xem: 13576)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 12596)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12146)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13369)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12647)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 25774)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 14660)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 28479)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 10397)
"Tánh Không" (còn gọi là tính-không) là một từ ngữ liên hệ đến sự giảng dạy chính yếu của mọi ngành Phật giáo, nhưng ý nghĩa thật sự của từ ngữ nầy thường bị hiểu lầm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant