Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 5 Thọ Giả Phân Biệt

30 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7104)
Chương 5  Thọ Giả Phân Biệt

BÁT QUAN TRAI GIỚI THẬP GIẢNG
八 關 齋 戒 十 講
Pháp -sư Diễn Bồi soạn
Thích-Thiện-Huệ dịch Việt

Chương 5 
Thọ Giả Phân Biệt 

Phần trên đã cùng chư vị hai lần bàn về giới đức thù thắng. Giới đức đã thù thắng như vậy, lẽ ra mọi người đều nên thọ Bát Quan Trai Giới để được công đức thù thắng. Song tuy nói vậy, nhưng không phải ai cũng có thể thọ Bát Quan Trai Giới. Muốn thọ phải đủ tư chất, nếu không, dù có phát tâm đến đâu đi nữa, cũng không được phép thọ giới. Như vậy, ai là người được thọ, ai là người không được thọ; do đâu phân biệt được điều này? Việc này trước khi thọ giới, phải tra xét kỹ càng xem họ có phải là pháp khí thọ giới hay không, rồi sau mới quyết định truyền giới. Trong Giới Luật, sự khảo xét trước khi truyền giới là “vấn già nạn”. Truyền Giới Sư phải hỏi tường tận người phát tâm xem có làm các điều gây nạn (“nạn”) hay ngăn che (“già”) việc thọ giới không? Nếu có thì gây trở ngại không ít cho việc thọ giới nên không thể cho thọ giới. Chú Yết Ma nói: “Trước khi thọ giới nên hỏi Già Nạn”, ý chỉ việc này. 

Những việc gì chướng ngại cho sự thọ giới? Theo kinh Thiện Sanh, kể ra bảy điều ngăn che như sau: 

1) Có từng trộm vật của hiện tiền Tăng không? 
2) Có từng hành dâm với nam nữ trong lục thân không? 
3) Có từng phá thanh tịnh hạnh của Tăng, Ni không? 
4) Có từng bỏ mặc khi cha đang bệnh không? 
5) Có từng bỏ mặc khi mẹ đang bệnh không? 
6) Có từng bỏ mặc khi sư trưởng đang bệnh không? 
7) Có từng giết hại người phát Bồ Đề tâm không? 

“Tăng vật” là những đồ cúng dường chư Tăng, hoặc tài vật thuộc về Thường Trụ. Vật thường trụ theo Luật có bốn loại: 

- Thứ nhất, Thường Trụ Thường Trụ, như phòng ở của chư Tăng, đồ dùng, hoa quả hay cây cối của chư Tăng trồng, vườn tược, đất đai của chư Tăng. Ở đâu thuộc về nơi đó, không được di chuyển đi nơi khác; cho nên gọi là “thường trụ”. Chư Tăng trụ trong phạm vi thường trụ này chỉ có thể thọ dụng, nhưng không được chia hay bán, phải để của này tồn tại vĩnh viễn nên lại gọi là “thường trụ”. 

- Thứ hai, Thập Phương Thường Trụ, tức các đồ cúng dường cùng phẩm vật ăn uống cung cấp cho chư Tăng trong chùa chiền, chẳng những chư Tăng hiện tiền trong chùa được quyền thọ dụng mà ngay các khách Tăng từ nơi khác đến cũng được quyền dùng, cho nên gọi là “thập phương”. Các đồ dùng ẩm thực này thuộc về chùa, tuyệt đối không được đem đi nơi khác, nên gọi là “thường trụ”. 

- Thứ ba, Hiện Tiền Thường Trụ, như có tín đồ nào phát tâm cúng dường tài vật, nói rõ là cúng cho chư Tăng trụ trong chùa này, hoặc cúng đích danh cho vị Tăng nào trong chùa, gọi là “hiện tiền”. Người phát tâm cúng thí như vậy nay đem vật cúng đó chia cho các người được cúng, không để lại chút nào, nên lại gọi là “hiện tiền”. 

- Thứ tư, Thập Phương Hiện Tiền, như hàng ngũ chúng xuất gia sau khi chết, các di vật có thể phân chia, nên cử hành phép Yết Ma phân chia. Trước khi hành Yết Ma, các di vật của người mất thuộc về Thập Phương Tăng, bất luận ông Tăng khách từ đâu đến cũng được một phần. Còn nếu đã làm Yết Ma, hiện tiền Tăng chúng tự chia, bấy giờ có khách Tăng nào lại cũng không được dự phần, gọi là “hiện tiền”. 

Tăng vật có bốn loại bất đồng, nhưng chúng ta không có quyền trộm bất cứ loại nào. Nếu trộm Tăng vật, lỗi này rất nặng. Theo Phật pháp thì vật của Tam Bảo thứ nào cũng nặng, nhưng Tăng vật là nặng nhất. Trong kinh Phương Đẳng, Hoa Tụ Bồ Tát nói: “Năm tội nghịch, bốn tội trọng, tôi còn có thể cứu, trộm cắp Tăng vật, tôi không cứu được”. Kinh Đại Tập nói: “Người trộm Tăng vật, tội đồng Ngũ Nghịch”. Kinh Quán Phật Tam Muội nói: “Người dùng Tăng Kỳ vật, tội còn hơn giết tám vạn bốn ngàn cha mẹ”. 

Ở đây hoặc có người hỏi: “Trộm Tăng vật tại sao tội lại nặng như vậy?” Phải biết đàn na tín thí cúng dường cho chư Tăng dầu một hạt gạo, cũng vốn muốn cúng cho mười phương các phàm thánh Tăng. Cho nên mỗi lần trong chùa nổi chuông, bất luận xa gần đều nghe, hoặc phàm hoặc thánh đều có thể thọ dùng. Như vậy, vừa trợ thành đạo nghiệp cho Tăng chúng, vừa được các phúc đức sâu kín. Vì vậy, trộm Tăng vật không kể nhiều ít, tội này không thể tha thứ

Trong hàng đệ tử Phật có tỳ kheo Ngưu Thí, tuy tu chứng A La Hán quả, nhưng vẫn có tướng ăn như trâu nhai cỏ. Có người hỏi Phật do nhân duyên gì mà có tướng như vậy? Phật bảo các vị tỳ kheo: “Quá khứ Ngưu Thí từng ăn trộm năm sáu hạt gạo cho vào miệng nhai, vì vậy bị đọa làm bò năm trăm đời. Bò thường nhai cỏ như vậy, nên trải qua năm trăm đời đã thành tập quán. Vì thế, tuy tu chứng A La Hán mà tướng ăn vẫn vậy”. 

Trộm dùng Tăng vật dĩ nhiên phần đông là người xuất gia. Hàng tục nhân, nhất là các tín chúng, rất ít phạm tội này, song không phải không có. Như hiện nay ở các nơi, hạng tự xưng là đại biểu tín đồ, đổi khách làm chủ, là hạng chuyên xâm tổn của Thường Trụ, đem Tăng vật chiếm cứ làm sở hữu của mình. Tín đồ Phật giáo như vậy chẳng những không đủ tư cách thọ Bát Quan Trai Giới mà còn không đủ tư cách để gọi là chánh tín Phật tử

Đừng nói đến trộm dùng Tăng vật có lỗi lớn, ngay đến hàng chánh tín ưu bà tắc, ưu bà di cho đến các bậc chánh nhân quân tử cũng đều biết Tăng vật không dễ có, của này thọ dùng khó tiêu hóa, nên Tăng chúng có không chiêu đãi, cũng chẳng những không nên hài lòng mà còn nên sanh hoan hỷ, cho rằng đó là quy luật của Phật pháp. Thế nên, tín chúng đến chùa phải có quan niệm chánh xác: “Đến vì Pháp, không đến vì ăn!” 

Hiện nay là thời Mạt Pháp, ở khắp nơi đều thấy có người vì Pháp mà đến thì ít, mà đến để ăn thì đông. Không tin xin xem: Bất luận nơi nào, hễ là pháp hội giảng kinh, thính chúng lác đác dăm người. Trong số thính chúng lác đác này, số người thật lòng nghe Pháp lại càng lơ thơ. Ấy nhưng nếu pháp hội có đãi ăn thì luôn luôn đông đảo. Đó là chưa kể, đại đa số đều chờ đến gần giờ ăn mới tới. Đã không dự tụng kinh, lễ sám, lại ăn xong là đi. Chẳng những ở các đạo tràng không có thuyết pháp cũng vậy, mà ngay đến các đạo tràng thuyết pháp, có pháp để nghe cũng thế. Vậy mà có người cho rằng đó là điềm Phật pháp hưng thịnh, nhưng dưới mắt người hiểu Phật pháp thì điều đó khác gì những nơi nhiệt náo ở thế gian, thật là điềm suy thoái của Phật pháp

Thế nên làm đệ tử Phật, bất luận Tăng hay tục, phải thương tiếc vật của chư Tăng như thương quý con mắt, đã không dám dùng bừa, lại không dám lấy trộm. Quá khứ không biết tội này là nặng nên đã từng vi phạm, hiện tại phát tâm thọ giới, ắt phải sám hối cho thanh tịnh. Nếu không, tuyệt đối không được thọ giới. Cho dù vì không biết mà truyền giới cho bạn, bạn cũng không thể được giới thanh tịnh. Cho nên có từng trộm Tăng vật hiện tiền hay không, khi hỏi Già Nạn, phải đáp thành thật. Có nói có, không nói không, không được đáp hàm hồ

Lục thân nam nữ là những người có quan hệ mật thiết với mình, bất kể là thế pháp hay Phật pháp, đều không nên có các hành vi bất chánh. Giả như có, là kẻ địch chướng đạo, không thể thọ giới. Tỳ kheo, tỳ kheo ni là những người tu phạm hạnh, là bậc thượng sĩ cầu xuất trần giải thoát, là phước điền vô thượng của nhơn thiên, là khuôn mẫu cho chúng sanh, thật như các bậc thánh thầncấm chỉ dâm dục. Nếu có người nam nữ nào làm các việc ô phá tịnh hạnh của Tăng, Ni, là tội ác vô cùng. Phải biết dâm dục tuy không phải là căn bản của sanh tử, song nó làm chướng ngại đạo pháp, không những chướng ngại việc hiện thế đắc Niết Bàn, mà còn chướng ngại cho việc chứng Bồ Đề của đời sau. Thậm chí ngăn ngại cả việc sanh Thiên. Bởi vì từ trời Sắc Giới trở lên đều không có dục của nam nữ như ở trời Dục Giớinhân gian. Đừng nói người thường đắm sắc còn bị nguy hại, ngay đến Độc Giác tiên nhân bay trên trời, vừa mới nhiễm sắc liền bị dâm nữ cưỡi trên cổ bay vào nhân gian; từ đó mất hết thần thông, không còn bay được nữa! Còn chúng ta là bậc nào mà có thể coi thường dục nhiễm được? Cho nên khi chưa học Phật có phạm các điều này cũng phải thành thật mà bộc bạch. 

Cha mẹ, sư trưởng nếu không phải là người ân đã nuôi nấng chúng ta thì cũng là người ân dạy dỗ chúng ta nên người. Không có cha mẹ thì ngay cái mạng sống này cũng không có, mà dẫu có cũng chưa chắc đã trưởng thành như ngày nay. Không có sư trưởng thì sự hiểu biết tối thiểu cũng không có, nói chi đến kiến thức cao sâu. 

Cha mẹ đối với con cái từ ái vô hạn, không có giấy mực nào đủ để diễn tả tâm từ ái đó. Chỉ cần thấy con cái đau ốm, tuy rõ ràng người con bệnh rên khổ thống, vậy mà cha mẹ trong lòng còn đau hơn là chính mình bệnh, nên cả ngày quanh quẩn bên giường bệnh, chốc lại sờ xem con bớt nóng chưa, lát lại ép con ăn, xem chừng đến giờ uống thuốc là đưa thuốc đến tận miệng con. Chăm sóc chu đáo hơn hết những vị y sĩ tận tâm nhất, cha mẹ chăm sóc con đến quên hết mọi việc khác. Đến lúc cha mẹ bệnh, phận làm con lẽ ra phải lo phụng dưỡng thuốc men, một giây cũng không rời cha mẹ. Vậy mới biểu lộ được phần nào hiếu tâm. Giả sử hiện giờ có một người con, bình thường đã không biết làm vui lòng cha mẹ, đến lúc cha mẹ đau ốm lại chẳng ngó ngàng, để mặc cha mẹ hoặc bệnh hoặc chết, thử hỏi như vậy có đáng làm con người không? Người như vậy quả đã mất hết nhân tánh

Sư trưởng là một vị thần thánh. Vì muốn giáo dục đời sau, họ đem hết mọi điều hiểu biết cùng đạo lý làm sao để nên người, tận tình tận lực dạy bảo cho chúng ta. Thấy chúng ta học vấn mỗi ngày mỗi tiến, vị thầy rất vui. Thấy chúng ta không tiến, vị thầy bất an như vì chính mình không hết lòng dạy dỗ. Sư trưởng ngoài sự truyền thọ kiến thức cho ta, còn khích lệ và ái hộ chúng ta nữa. Vì một vị thầy tận tâm luôn luôn mong muốn học trò mình thành sự nghiệp, và còn mong cho học trò mình có được phẩm cách thanh cao nữa. Sư trưởng không chỉ dạy cho chúng ta chữ nghĩakiến thức bằng trí thức của người, mà còn lấy đời sống tự thân mình ra dạy ta nữa. Nói chung, dạy từ lý thuyết đến hành động. Lại khéo khuyến dụ, sửa sai mỗi khi học trò có chỗ sai lầm, có lúc đánh mắng để cho học trò nên người. Vì vậy, bổn phận người học trò bất luận nơi đâu thấy sư trưởng đều phải kính lễ. Khi sư trưởng không còn cũng thường ghi nhớ những điều người dạy, chân thành tha thiết như hiếu tử nhớ cha mẹ, như người đói nhớ ăn. Khi thầy có bệnh phải gần gũi chăm lo thuốc men, coi sóc mọi việc cho thầy. Không được bỏ mặc, chẳng màng thầy sống hay chết, học trò như vậy sao đáng gọi là người có học? 

Theo Phật pháp thì cha mẹ sanh dưỡng sắc thân này của ta, còn sư trưởng sanh dưỡng Pháp Thân ta. Thực khó mà nói hết được ân đức lớn này đối với chúng ta, đến đức Phật cũng không sao diễn bày hết được. Trong kinh Tâm Địa Quán, đức Phật bày tỏ: “Ta có ở đời nói một kiếp, cũng không thể nói hết”. Trong kinh, đức Phật cũng dạy khi cha mẹ hay sư trưởng có bệnh phải cung cấp mọi thứ, chăm sóc, thuốc men, nhất nhất không được thiếu sót. Giả sử hạng làm con hay học trò chẳng lo nuôi bệnh cha mẹ hay sư trưởng, chỉ lo hưởng thụ, như vậy tư cách làm người chưa đủ, làm sao lãnh thọ giới của chư Phật được? Vậy trước khi thọ giới phải hạch hỏi xem có phạm lỗi này không, phải thành thật trình bày, nếu có thì sám hối, sau đó mới được thọ Bát Giới

Những người phát Bồ Đề tâm tuy hãy còn là phàm phu, nhưng công đức của họ đủ vượt quá Nhị Thừa; vì vậy, chúng ta đối với họ nên tôn kính thương mến, vì sao? Bởi Bồ Tát phát tâm Bồ Đề, đầy đủ tinh thần quên mình, tất cả đều vì chúng sanh, bất kể tiền tài hay tri thức của mình, hoặc sức mạnh hay khả năng của mình đều cung cấp cho chúng sanh, bất kể xa gần hay thân sơ, Bồ Tát bố thí như vậy cho tất cả chúng sanh mà chẳng cầu báo đáp, cũng chẳng cầu danh văn, lợi dưỡng, chỉ một lòng chân chính cứu độ hết thảy chúng sanh, nhiếp thủ nhiêu ích chúng sanh mới làm được như vậy. Vì Bồ Tát chỉ một niệm thương xót chúng sanh, thấy chúng sanh đắm chìm trong chốn đau khổ vô hạn, tự hỏi mình có đủ năng lực cứu vớt hay không, ngoài ra, chẳng còn niệm nào khác. Do vì niệm thương xót, nên phát tâm rộng thí, cứu giúp chúng sanh không điều kiện, cho dù không đủ sức, Bồ Tát cũng không nhẫn tâm nói: “Tôi chả có gì để giúp bạn!” 

Phát tâm Bồ Tát quên mình vì người như vậy, chúng ta phải nên giúp họ đủ mặt, để họ có thể rộng làm chuyện lợi người. Nếu không làm nổi như vậy, cũng đủ làm cô phụ Bồ Tát sơ phát tâm, huống chi còn sát hại những người phát tâm Bồ Tát như vậy, khiến cho vô số người không được Bồ Tát cứu giúp. Thử hỏi như thế tội lớn đến dường nào? Cho nên nếu đã phạm tội này, tất không thể là bậc pháp khí thọ giới. Vậy khi hỏi Già Nạn, nếu có, phải chân thành sám hối, mới được thọ Bát Giới

Già Nạn như trên đã nói. Ba giới Sát, Đạo, Dâm trong bốn loại tánh tội (6), giết người phát Bồ Đề tâm, trộm của Tăng hiện tiền, hành dâm với lục thân là các trọng tội trong các tánh tội. Cư sĩ tại gia nếu phạm phải ắt chướng ngại giới thể vô tác, do vậy giới thể không thể phát khởi. Ở đây, hoặc có người hỏi: “Tội vọng ngữ trong bốn loại tánh tội, tại sao không bị liệt vào Già, Nạn?” Đó là bởi vì “chưa chứng Thánh Quả nói chứng, chưa đắc đạo nói đắc”, đại vọng ngữ này đa phần là người xuất gia phạm, hàng tại gia khó phạm phải giới này, cho nên trong Già, Nạn không đề cập đến. 

Yết Ma Sớ theo Thành Thuật Luận nói: “Chẳng những chỉ có bảy điều Già, Nạn trên không được thọ giới mà còn có tội Ngũ Nghịch, gã tặc trụ, làm ô tỳ kheo ni đều không được xuất gia”. Bởi vì các tội này của họ làm chướng ngại thánh đạo vô cùng, chẳng phải sám hốithanh tịnh lại được, nên dù có cho người đó xuất gia, họ cũng không sao chứng được Thánh Quả thanh tịnh, nhất định phải chịu quả báo nặng. Tuy nhiên, Bát Quan Trai Giới chỉ để luyện tập xuất gia, không phải chánh thức xuất gia, nên chỉ cần nhận chân sám hối, và chứng tỏ rằng sau khi sám hối không còn dám tái phạm thì vẫn được thọ Bát Quan Trai Giới, và có thể y đó tu hành bố thí, tạo dựng sự nghiệp từ thiện, lợi ích cho nhân quần chúng sanh

Gọi là “tặc trụ” là người chưa thọ Cụ Túc Giới, lén lút xâm nhập vào hàng ngũ Tăng để được lợi dưỡng, hoặc nghe lén Yết Ma trong Tăng đoàn, điều này cũng làm trở ngại vô cùng cho sự xuất gia. Bởi lẽ bọn họ sau khi xem và nghe Luật, sanh khởi tâm kiêu mạn đối với Pháp và Tăng, đó là điều tệ hại nhất. Nhưng nếu là tặc trụ, cũng có thể thọ Bát Giới nếu sám hối chân thật. Cho nên, người chân chánh phát tâm thọ Bát Giới chắc chắn là người pháp khí thân tâm an lạc

________________________
(6) Tánh tội: Bốn giới trọng Sát, Đạo, Dâm, Vọng tự tánh vốn ác, không cần phải đợi Phật chế. Hễ phạm phải chịu quả báo, nên gọi là Tánh tội. Còn giới ẩm tửu tự tánh chẳng phải ác, đức Phậtbảo hộ các giới kia nên cấm không cho phạm. Nếu uống là phạm tội do Phật chế, nên gọi là Già tội

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2321)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 33674)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6681)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 6681)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 3929)
Tạo sao gọi là Phổ Môn? vì tự tính của mình phổ biến khắp hư không pháp giới, nên gọi Phổ Môn.
(Xem: 5189)
“Quán” là xem xét, “Thế Âm” là âm thanh của thế gian. Quán Thế Âmxem xét âm thanh thế gian, tiêu biểu cho lòng từ bi của Bồ-tát.
(Xem: 11512)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30537)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 8111)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12372)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 3345)
Một bài pháp được ban cho chư Tăng Ni ở International Mahayana Institute tại Boudhanath, Nepal, ngày 2 tháng 2, năm 1975. Nicholas Ribush hiệu đính.
(Xem: 35047)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 52424)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 13198)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 22069)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9738)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 3152)
"Niệm Phật" nghĩa là xưng danh hiệu - hay nhớ tưởng đến hình tướng, bản nguyện hay công đức của một đức Phật - như Phật Thích-ca hay Phật A-di-đà.
(Xem: 10507)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12943)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12914)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16374)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 13999)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14446)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9330)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11870)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11380)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 11638)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 12796)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 20842)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 17812)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32002)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12129)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11964)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 4384)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, Luận Tập Bộ Toàn; Kinh văn số 1678. Pháp Hiền dịch ra chữ Hán. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12863)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10454)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 16541)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 11885)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14913)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12140)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16996)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 12821)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 52476)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 12769)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 10029)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 14625)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20287)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13903)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15519)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17628)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 16919)
Nhập Trung Quán Luận (PDF) - Tổ Sư Nguyệt Xứng - Chuyển dịch: Thích Hạnh Tấn, TN Nhật Hạnh
(Xem: 13576)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 12594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12145)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13368)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12646)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 25769)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 14660)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 28475)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 10397)
"Tánh Không" (còn gọi là tính-không) là một từ ngữ liên hệ đến sự giảng dạy chính yếu của mọi ngành Phật giáo, nhưng ý nghĩa thật sự của từ ngữ nầy thường bị hiểu lầm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant