Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời tựa Của Ngài Thupten Jinpa

04 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 8951)
Lời tựa Của Ngài Thupten Jinpa

Đức Đạt Lai Lạt Ma
TU TUỆ
Bản tiếng Anh: Practicing Wisdom - Nhà xuất bản Wisdom
Bản tiếng Pháp: Pratique de la Sagesse - Nhà xuất bản Presses du Châtelet
Bản dịch Việt ngữ: Hoang Phong - Nhà xuất bản Phương Đông TP. Hồ Chí Minh 2008

Lời tựa
(Của Ngài Thupten Jinpa (1))

Hành trình đến Giác ngộ (2) là một tập Luận của Tịch Thiên (Shantideva), được Đức Đạt-Lai Lạt-ma bình giảng. Tập Luận nêu lên một điều tiên quyết: tất cả những lời Phật dạy đều nhắm vào mục đích khuyến khích ta trau dồi Trí tuệ. Điều khẳng định này tuy có vẽ đơn giản nhưng thật ra đã phản ảnh một sự hiểu biết thâm sâu, và cũng là trọng tâm của thông điệp Phật giáo. Tuy rằng một vài môn đệ của Đức Phật sau này có chủ trương sai lạc đi, nhưng từ nguyên thủy Đức Phật đã dạy rằng nếu ta có đạt được Giác ngộ hoàn hảo, thì chắc chắn sự Giác ngộ ấy ta không đạt được bằng cách hành hạ thân xác, cũng không phải bằng những nghi lễ phức tạp hay bằng những lời cầu nguyện, nhưng bằng cách bảo vệ thật kỷ cương tâm thức của chính ta. Khi nào ta vẫn còn vướng mắc trong chu kỳ luân hồivô minh cội rễ không cho phép ta quán nhận được bản chất thật sự về sự hiện hữu của bản thân ta, thì khi đó xoá bỏ tấm màn vô minh vẫn còn là một yếu tố chính yếu thúc đẩy việc tu tập Trí tuệ. Hiểu được như thế ta sẽ ý thức được tầm quan trọng của con đường đưa ta đến sự hiểu biết.

Tập thơ của Tịch Thiên được ghi chép từ thế kỷ thứ VIII, và ngay sau đó đã trở thành một văn bản nòng cốt giúp cho người Bồ-tát trên đường tu tập, một con đường thật dài hướng đến sự hiển lộ hoàn toàn của Phật tính. Trong tập thơ này khởi sự từ chương V đến chương IX các chủ đề như Bảo toàn sự Tinh tấn, Nhẫn nhục, Kiên trì, Suy tư và Sự Hiểu biết Siêu nhiên được nêu lên và tập trung vào hai điều sau cùng trong số Sáu điều hoàn thiện Trí tuệ (3). Bốn chương đầu tiên tiên từ I đến IV của tập thơ – gồm có các chủ đề Tán tụng về Tư duy tỉnh thức ; Xám hối, Ý thức về Tư duy tỉnh thứcỨng dụng về Tư duy tỉnh thức – lại dành riêng để nói đến các thể dạng khác biệt của Bồ-đề tâm (tức ước vọng đạt được tâm linh tỉnh thức). Chương X trình bày những ước vọng vô cùng cảm động về lòng thương người của những vị Bồ-tát. 

Tập Hành trình đến Giác ngộ khi mới được phổ biến đã sớm chinh phục được một số quần chúng rộng rải trên đất Ấn và Tây tạngtác phẩm này được dịch sang tiếng Tây tạng ngay từ thế kỷ thứ IX. Và suốt trong nhiều thế kỷ sau đấy, đã trở thành một « văn bản cội rễ », ảnh hưởng sâu đậm đến nhiều trào lưu quan trọng của Phật giáo, các vị thầy lừng danh Ấn độTây tạng thay nhau đưa ra nhiều lời bình giải.

Ảnh hưởng này vẫn không suy yếu trên giòng thời gian, Vị Đạt-Lai Lạt-Ma hiện tại vẫn thường trích dẫn nhiều đoạn trong bài thơ trường thiên đó của Tịch Thiên vào những buổi thuyết giảng của Ngài về Phật giáo. Ngài cho rằng tiết thơ tứ tuyệt sau đây có thể xem là một rong những nguồn hứng khởi lớn lao và hùng mạnh nhất :

 Khi nào không gian còn tiếp tục,
 Khi nào chúng sinh còn hiện hữu,

 Tôi van xin được còn đây,

 Để làm tan biến những khổ đau của thế gian này.

Đức Đạt-Lai Lạt-Ma sẽ trình bày về chương IX của tâp thơ, dựa trên hai cách bình giải đáng chú ý nhất đã được soạn thảo vào thế kỷ thứ XIX, hai cách bình giải này tiêu biểu cho hai trường phái Phật giáo khác nhau. Cách bình giải thứ nhất do Khentchen Kunzang Palden đưa ra trong tập luận Hương vị tuyệt vời về những lời giảng của Manjushri, và tập luận này thuộc truyền thống Ninh-mã (Nyingmapa). Cách bình giải thứ hai của Minyak Kunzang Seunam trình bày trong tập luận Ngọn đuốc sáng ngời, một tập sách phản ảnh đường hướng của trường phái Cách-lỗ (Guélougpa). Không những Đức Đạt-Lai Lạt-Ma đã trình bày thật cặn kẽ văn bản của Tịch Thiên, mà Ngài còn góp thêm những lời bình giải xuất phát từ những suy tư của riêng Ngài trong việc tu học Phật Pháp. Những suy tư đó được trình bày riêng rẽ với phần bình giải của tập sách và mang tiểu đề « Sự hiểu biết siêu nhiên », trong mục đích giúp người đọc theo dõi phần trình bày văn bản nguyên thủy một cách dễ dàng hơn. Đức Đạt-Lai Lạt-Ma so sánh song song hai cách bình giải xưa của Tây tạng, đồng thời trình bày thêm cách bình giải của riêng của Ngài. Với những lời bình giải trên đây, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma sẽ đưa ta đi sâu vào một trong những trước tác quan trọng nhất của Đại thừa, còn gọi là Cỗ xe lớn.

Bài giáo huấn này được Đức Đạt-Lai Lạt-Ma thuyết giảng tại viện Vajra Yogini trên đất Pháp vào tháng mười một năm 1993, do lời mời của Hiệp hội những người Phật giáo Tây tạng tại Pháp. Bài giáo huấn này là phần tiếp nối của một loạt thuyết trình đã được tổ chức trước đó trong vùng Dordogne (Pháp) từ tháng tám năm 1991, đề cập đến tám chương đầu tiên trong tập Hành trình đến Giác ngộ. Quyển sách này của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma đã ban cho chúng ta những lời bình giải thâm sâu, minh bạch, hàm chứa nhiều xúc động về một trong những tác phẩm cổ điển và đẹp nhất của Phật giáo.

Thupten Jinpa
Montréal, 2004

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 27)
Đạo Phật là đạo của bi trí dũng. Đạo của trí tuệ, của chánh biến tri, và chánh tri kiến chứ không phải không thấy mà tin tưởng mù quáng.
(Xem: 129)
Phân biệt phước đức và công đức là cần thiết cho việc học và hành đạo Phật.
(Xem: 140)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(Xem: 243)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 270)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 289)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 347)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 276)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 347)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 451)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 416)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 360)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 447)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 665)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 518)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 541)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 630)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 827)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 894)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 923)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 902)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 785)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 772)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 773)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 871)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 879)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 997)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 771)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 665)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 770)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 872)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 776)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 780)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 897)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 927)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 881)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 927)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 960)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 952)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1145)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 1011)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1736)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1112)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1248)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 987)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1264)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1168)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1174)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1337)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1630)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2091)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1147)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1403)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1144)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 994)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1103)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1146)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1570)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1330)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant