Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

1. Dẫn nhập

04 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 9773)
1. Dẫn nhập

Đức Đạt Lai Lạt Ma
TU TUỆ
Bản tiếng Anh: Practicing Wisdom - Nhà xuất bản Wisdom
Bản tiếng Pháp: Pratique de la Sagesse - Nhà xuất bản Presses du Châtelet
Bản dịch Việt ngữ: Hoang Phong - Nhà xuất bản Phương Đông TP. Hồ Chí Minh 2008

1
Dẫn nhập

Phát huy một động lực tinh khiết

Suốt trong quyển sách này, với tư cách một người thầy tinh thần, tôi sẽ cố gắng phát huy trong tôi sự thúc đẩy tinh khiết nhất mà tôi có thể làm được vì lợi ích của chính quý vị, tức những người đọc quyển sách này. Về phần quý vị cũng thế, đến gần với những lời giảng huấn bằng tấm lòng thiện cảm và một tâm ý tích cực là một điều hệ trọng.

Đối với quý vị độc giả nào là những Phật tử trung kiên, mang hoài bảo đạt đến sự Tỉnh thức tối thượng, thật là hệ trọng nếu quý vị biết liên tục cố gắng tìm cách trở thành những con người thiện cảm và nhiệt tình. Chủ đích đó sẽ đem đến cho những cố gắng của quý vị một ý nghĩa, giúp quý vị tích lũy được những điều xứng đáng để tạo ra chung quanh quý vị một sức mạnh tích cực. Vì vậy, trong lúc chuẩn bị để đọc quyển sách này, quý vị hãy nương tựa vào ba Vật báu (4) và xác định trở lại một cách minh bạch lòng thương người của quý vị, quyết tâm của quý vị đạt đến Giác ngộ hoàn hảo vì sự tốt lành của tất cả chúng sinh. Không quy y Tam bảo, cách tu tập của quý vị sẽ không phải là tu tập Phật giáo. Thiếu ước vọng thương người, quyết tâm đạt được thể dạng của Phật vì lợi tha, hành vị của quý vị sẽ không thể xem là hành vi của một môn đệ Đại thừa.

Nếu quý vị nào, trong số nhũng người đọc của tôi, không phải là những người Phật giáo chuyên cần, xin quý vị ít nhất cũng nên có một chút quan tâm thật sự về đạo Phật. Sự kiện quý vị theo một truyền thống tôn giáo khác, Thiên chúa giáo chẳng hạn, điều đó cũng không cấm cản quý vị cảm thấy liên hệ đến một vài khía cạnh nào đó về phương pháp và kỷ thuật của những người Phật giáo xử dụng để cải thiện tâm linh của họ. Nếu quý vị thuộc vào trường hợp này, quý vị cũng nên cố gắng chấp nhận một thái độ thiện cảm và sự thúc đẩy tích cực trong khi quý vị chuẩn bị đọc quyển sách này. Nếu như một vài phương pháp hoặc kỹ thuật nào mà quý vị thấy có thể ghép thêm vào đời sống tinh thần của quý vị, thì quý vị cũng đừng do dự. Nếu như không làm được như thế, tốt hơn xin quý vị hãy xếp quyển sách này lại, một cách thật đơn giản.

Chính tôi đây, tôi cũng chỉ đơn giản là một nhà sư Phật giáo, ngưỡng mộ và cảm ứng sâu xa trước những lời giáo huấn của Phật, và đặc biệt trước những người đã thực hiện được lòng Từ bi và thấu hiểu về bản thể sâu kín của hiện thực. Tuy không hề có một chút xíu kiêu hãnh nào trong tư thế đứng ra trình bày những lời giáo huấn phong phú về tinh thần này, nhưng ít ra tôi cũng phải cố gắng làm những gì tôi có thể làm được để nhận lấy trọng trách của lịch sử đặt lên vai tôi trong công tác chia xẻ những lời bình giải cá nhân của tôi về những lời giáo huấn này với một số người càng đông càng tốt.

Các người đọc của tôi, nhiều vị cũng có thể mang hoài bảo muốn cải thiện tâm linh mình. Dù rằng người giảng huấn cũng cần phải đủ sức nắm vững hoàn toàn những chủ đề đưa ra giảng dạy, mặc dù thế, về phần tôi, tôi cũng không giám tự cho mình đã hiểu biết đầy đủ và toàn diện về những chủ đề mà chúng Ta-bàn thảo với nhau hôm nay. Tuy nhiên, văn bản mà chúng ta sẽ nghiên cứu liên hệ chính yếu đến học thuyết về Tánh không, một học thuyết mà tôi ngưỡng mộ hết sức sâu xa, còn hơn thế nữa có thể nói là một sự ràng buộc tình cảm, vì mỗi lần có dịp là tôi tìm cách suy tư về học thuyết đó. Theo kinh nghiệm hạn hẹp của tôi – ít ra tôi cũng tự cho phép tin là tôi đã đạt được cái kinh nghiệm ấy – chủ thuyết về Tánh không là một triết thuyết sinh động, và một khi nắm vững được triết thuyết ấy ta sẽ gặt hái được nhiều kết quả. Vì thế tôi nghĩ rằng đó là phẩm tính duy nhất mà tôi đã đạt được, giúp cho tôi dựa vào đó để thuyết giảng về văn bản của Tịch Thiên.

Trí nănglòng tin

Khi quý vị quan tâm sâu xa về Phật giáo và quý vị nhất định bước vào con đường tu tập tâm linh để khám phá sự phong phú trong những lời giảng huấn của Phật, hoặc trong trường hợp ngược lại quý vị chỉ mới khởi sự chú ý đến vấn đề này cũng thế, trong cả hai trường hợp quý vị đừng bao giờ để bị mù quáng bằng một thứ đức tin duy nhất – đừng xài hết tiền mặt cho một đức tin đơn thuần. Nếu quý vị bị lôi cuốn vào đó, quý vị có thể gặp nguy cơ đánh mất khả năng lý luận của quý vị. Đối tượng của đức tinlòng mộ đạo phải được khám phá bằng những kinh nghiệm cá nhân, có nghĩa là bằng khả năng lý luận. Nếu sự khảo sát ấy đưa đến một sự tin tưởng sâu xa, đức tin của quý vị sẽ được nẩy nở. Sự tự tin và đức tin nếu dựa trên lý trí sẽ luôn luôn vững chắc và có thể tin tưởng được ; nếu ta không xây dựng lòng tin bằng cách vận dụng trí thông minh, thì ta sẽ không còn biết phải dựa vào những cơ sở nào vững chắc hơn để xây dựng lòng tin nơi những lời giáo huấn của Phật.

Học hỏi để mở rộng tầm hiểu biết cá nhân của ta về những lời giảng huấn của Phật quả thật là một điều hệ trọng. Long Thọ (Nagarjuna) (5), một vị thầy người Ấn thuộc thế kỷ thứ II, xác nhận rằng đức tintrí thông minh, cả hai đều là những yếu tố cần thiết cho sự triển khai tinh thần, và đức tin còn có thể được xem trội hơn, như là một nền móng căn bản vậy. Tuy nhiên, Long Thọ cũng phát biểu thêm rằng đức tin chỉ đủ sức hướng dẫn sự thăng tiến tinh thần của ta khi nào nó được hổ trợ bởi trí thông minh, trí thông minhphương tiện giúp ta đủ sức nhận ra con đường phải theo và trau dồi sự hiểu biết sâu xa. Dù sao, ta không thể để sự quán nhận đơn thuần dừng lại ở cấp bậc hiểu biếttrí thông minh, như thế chưa đủ ; nó còn phải thâm nhập vào tim ta và tâm thức ta để có thể ảnh hưởng trực tiếp đến những hành vi của ta. Nói cách khác, là nghiên cứu đơn thuần trên mặt trí năng về Phật giáo sẽ không đưa đến một tác dụng nào trên thái độcách cư xử của ta trong cuộc sống.

Văn bản cội rễ 

Đối với Phật giáo Tây tạng, các văn bản cội rễ là các kinh điển sou-tra và tan-tra, ghi chép lại những lời giáo huấn đích thực của Phật. Ngoài số kinh điển ấy còn phải kể đến các bộ sách Tengyour, đó là kho tàng mênh mông gồm các trước tác của các học giả lỗi lạc người Ấn, và hàng ngàn những tập sách bình giải do các đại sư thuộc bốn trường phái Phật giáo Tây tạng biên soạn. Văn bản làm nòng cốt cho bài thuyết giảng này mang tựa đề « Sự hiểu biết siêu nhiên » thuộc vào chương IX của tập sách Hành trình đến Giác ngộ (Bodhicaryavatara), do một đại sư người Ấn là Tịch Thiên thuyết giảng vào thế kỷ thứ VIII.

Tôi được thụ giáo về văn bản này qua ngài Khounou Rinpoché - Tenzin Gyalsen, ông là một Đại thiền sư và một bậc thầy về tâm linh đã quá cố. Ông đã dốc lòng tu tập để thực hiện tâm linh Giác ngộ, dựa vào văn bản của Tịch Thiên, và chính ông, ông cũng đã được thụ giáo về văn bản này qua một vị Đại sư lừng danh khác là Djé Patrul Rinpoché. 

Tôi bình giảng tập luận Hành trình đến Giác ngộ dựa vào hai cách bình giải trong số những lời bình giải vừa kể trên đây. Cách thứ nhất của Khentchen Kunzang Palden xử dụng thuật ngữ riêng của Ninh-mã phái (Cựu học phái) ; cách thứ hai của Myniak Kunzang Seunam – vị này tuy là học trò của Patrul Rinpoché nhưng lại đứng về phía trường phái Guélougpa – xử dụng thuật ngữ giảng giải của trường phái này. Trong phần thuyết trình của tôi, tôi sẽ trình bày những khác biệt trong cả hai cách biện giải của hai học giả chuyên gia đó. Ta hãy sẽ xem kết quả biến chuyển như thế nào! 



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 204)
Đức Phật (khoảng năm 450 trước Công nguyên) là người có giáo lý tạo thành nền tảng của truyền thống Phật giáo.
(Xem: 356)
Chỗ ở của người tu thường là nơi thanh vắng, núi rừng. Thời Đức Phật còn tại thế cũng thường ở trong những khu rừng.
(Xem: 319)
Trên con đường tiến hóa của mình, loài người tiến theo hướng càng ngày càng thiện lành hơn.
(Xem: 416)
Đầu đà tăng còn gọi là khổ hạnh tăng. Hán dịch chữ Tăng, không chỉ riêng tăng nhân Phật giáo mà nhằm chỉ vị tăng của các tôn giáo Ấn Độ cổ đại.
(Xem: 542)
Truyền Đăng sinh năm 1554, họ Diệp, hiệu Vô Tận, biệt hiệu Hữu Môn.
(Xem: 639)
Tính nối kết là một đặc trưng của kinh Pháp Hoa. Ở đây chỉ trích ra một ít câu để làm rõ.
(Xem: 646)
Vạn sự vạn vật hay các pháp hữu vi đều từ duyên mà khởi lên, chứ không có tự tánh.
(Xem: 785)
Lama Zopa Rinpoche giải thích phương pháp thiền về tính không trong cuộc sống hàng ngày.
(Xem: 1061)
Vạn sự vạn vật hay các pháp hữu vi đều từ duyên mà khởi lên, chứ không có tự tánh.
(Xem: 786)
Trong bài này sẽ nghiên cứu về chương thứ nhất, phẩm Tựa, của kinh Pháp Hoa để nhìn thấy phần nào tính vũ trụ của kinh
(Xem: 1062)
Khi một thiền giả theo đuổi con đường giới, vị ấy nên khởi sự thực hành khổ hạnhđể kiện toàn các đức đặc biệt ít muốn, biết đủ
(Xem: 1154)
Với ngày giác ngộ của Đức Phật và năm mới sắp đến, suy nghĩ của chúng ta được phát khởi từ...
(Xem: 1175)
Hai thời công phu còn gọi là triêu mộ khóa tụng (朝暮课诵) hoặc nhị khóa, tảo vãn khóa, đều áp dụng cho hàng xuất giatại gia mỗi ngày.
(Xem: 1335)
Người trí tạo thiên đường cho chính mình, kẻ ngu tạo địa ngục cho chính mình ngay đây và sau này.
(Xem: 1215)
Chúng ta kinh nghiệm thế giới vật chất bằng sáu giác quan của mình: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
(Xem: 995)
Ta đã già rồi ư? Sự vô thường của thời gian quả thật không gì chống lại được.
(Xem: 1201)
Kinh Hoa Nghiêm còn gọi kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, là một kinh điển trọng yếu của Đại thừa. Bản kinh mô tả cảnh giới trang nghiêm huyền diệu
(Xem: 1112)
Từ bây giờ, là người mới xuất gia, nhiệm vụ của các con là sửa đổi và phát triển bản thân.
(Xem: 1332)
Việt Namquốc gia ở vùng Đông Nam Á cho nên chúng ta may mắn được hấp thụhai trường phái Phật giáo lớn nhất của thế giới,
(Xem: 1237)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 1488)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 1205)
Với ngày giác ngộ của Đức Phật và năm mới sắp đến, suy nghĩ của chúng ta được phát khởi từ
(Xem: 1230)
Chủng tử là hạt mầm của đời sống, là nguồn năng lượng đơn vị cấu thành nghiệp lực, là yếu tốsâu kín và căn bản quyết định sự hình thành cái ‘Ta’ (Ngã)
(Xem: 1393)
Đế Nhàn, gọi đầy đủ là Cổ Hư Đế Nhàn, là tổ sư đời thứ 43 Thiên Thai tông, một bậc cao Tăng cận đại, phạm hạnhcao khiết, giỏi giảng kinh thuyết pháp, độ chúng rất đông.
(Xem: 1092)
Giải thoát thì không có trước có sau, không có thừa! Và không có để lại bất kỳ cái gì.
(Xem: 1288)
Bản kinh chúng ta đang có là bản kinh 262 trong Tạp A Hàm Hán Tạng. Trong Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikaya) của tạng Pāli có một kinh tương đương, đó là kinh Chiên Đà.
(Xem: 1201)
Thực tại được kinh Hoa Nghiêm gọi là pháp thân Phật, được diễn tả nhiều trong các bài kệ của phẩm đầu tiên Thế Chủ Diệu Nghiêm.
(Xem: 1383)
Gần 26 thế kỷ về trước, sau khi kinh qua nhiều pháp môn tu tập nhưng không thành công, Đức Phật đã quyết định thử nghiệm chân lý bằng cách tự thanh tịnh lấy tâm mình.
(Xem: 1049)
Tín là niềm tin. Niềm tin vào Tam Bảotin tưởng vào Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 1415)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian đem lại an vui cho tất cả chúng sanh. Đạo Phật là đạo của giác ngộgiải thoát.
(Xem: 1050)
Pháp Lục hòa là pháp được đức Đạo sư nói ra để dạy cho các đệ tử xuất gia của Ngài lấy đó làm nền tảng căn bản cho nếp sống cộng đồng Tăng đoàn
(Xem: 1085)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha
(Xem: 973)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người
(Xem: 1480)
Sự thành tựu tối thượng mà những vị đang đi trên con đường độc nhất tiến tới giác ngộ, là khả năng thành tựu tất cả từ hư vô.
(Xem: 1315)
Phật pháp như thuốc hay, nhưng tùy theo căn bịnh.
(Xem: 1550)
Pháp Duyên khởi, tiếng Phạn là Pratīya-samutpāda. Pratīya, là sự hướng đến. Nghĩa là cái này hướng đến cái kia và cái kia hướng đến cái này.
(Xem: 1579)
Phẩm này tiếng Phạn Sadāparibhūta. Sadā là thường, mọi lúc, mọi thời gian; Paribhūta là không khinh thường.
(Xem: 1732)
Ngày xưa, ở thành Xá-vệ có một vị trưởng giả giàu có, tiền tài châu báu vô lượng. Ông thường thứ tự thỉnh các vị sa-môn đến nhà cúng dường.
(Xem: 1991)
Đối với chúng con, bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm lãnh đạo, lấy Thế Tôn làm chỗ nương tựa.
(Xem: 1754)
Truyền thống Đại thừa Á Đông thường dịch nghĩa prajñāpāramitā là Huệ đáo bỉ ngạn (zh. 慧到彼岸), Trí độ(zh. 智度), Trí huệ độ người sang bờ bên kia.
(Xem: 1655)
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả.
(Xem: 1332)
Không có một chỗ nào để trụ trong giáo pháp Trung đạo. Tâm không có chỗ trụ thì không tự giải quyết được gì vì không có nơi để tập trung, nắm níu.
(Xem: 1336)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(Xem: 1180)
Kamma, Nghiệp, theo đúng nghĩa của danh từ, là hành động, hay việc làm. Định nghĩa cùng tột của Nghiệp là Tác ý (cetana).
(Xem: 1197)
Đối với quỷ sứ, cung trời là địa ngục còn địa ngụcthiên đàng. Đối với thiên thần, cung trời là thiên đàng còn địa ngụcđịa ngục.
(Xem: 2072)
Duyên Khởi hay còn gọi là Định luật Nhân Quả là một nội dung quan trọng bậc nhất trong giáo phápĐức Phật thuyết giảng.
(Xem: 1718)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 1650)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng takhông thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 1672)
Trong giáo lý của Đức Phật về duyên khởi(Paticca-samuppāda), vòng luân hồi của sinh tử, gọi là samsara, được mô tả như một quá trình
(Xem: 1635)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(Xem: 1583)
Ở đời có người quan niệm rằng, mình sống làm người, sau khi chết mình cũng sẽ tái sinh làm người ở một cõi nào đó, thậm chí có người còn nghĩ mình về sống dưới suối vàng.
(Xem: 1948)
Từ vô ngã bùng nổ thành ngã, và rồi từ ngã bùng nổ giác ngộ trở về lại vô ngã. Cái “big bang Phật Giáo” này xảy ra trong từng sátna.
(Xem: 2258)
Trong nhận thức của quốc vương Koravya, cũng như nhận thức của nhiều người, một người từ bỏ cuộc sống...
(Xem: 2029)
Trong bài này sẽ nói về năm pháp: danh, tướng, phân biệt, chánh trí, như như, từ Kinh Nhập Lăng Già (Đại chánh tân tu Đại tạng kinh,
(Xem: 1797)
Hổm nay chúng ta đã tìm hiểu bài Đại kinh Rừng Sừng Bò, sáu vị thánh nhân trình bày hình ảnh lý tưởng của vị tỳ kheo trí tuệđức hạnh,
(Xem: 2015)
Các học giả tranh luận liệu những lời dạy của Đức Phật được lưu giữ trong kinh điển Pāli có thể được coi là triết học hay không,
(Xem: 2516)
Ở đời không ai mong cầu giải thoát khi đang ở trong lầu son hạnh phúc. Người ta chỉ muốn được giải thoát khi bị nhốt trong hoàn cảnh bi đát nào đó.
(Xem: 2194)
Chúng sinh tuy bình đẳng nhưng căn tính bất đồng. Bình đẳng trên chân lý không phải là mọi người ngang hàng bằng nhau.
(Xem: 2019)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, có nguồn gốc từ Ấn Độ, do Thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm (Siddhārtha Gautama) hình thành và sáng lập.
Quảng Cáo Bảo Trợ
free website cloud based tv menu online azimenu
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant