Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Chín: Bốn Cửa Của Triệu Châu

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 16359)
Tắc thứ Chín: Bốn Cửa Của Triệu Châu

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 1

TẮC THỨ CHÍN

BỐN CỬA CỦA TRIỆU CHÂU

 

THÙY: Gương sáng trên khung, xấu đẹp tự hiện. Gươm quí trên tay, tha hồ sinh sát. Hán đi hồ đến, hồ đến hán đi. Trong chết được sống, trong sống được chết. Thử nói xem, đến mức độ này thì thế nào? Nếu không có con mắt nhìn thấu quan hay chỗ để chuyển thân, đến mức độ này hiển nhiên người ta chẳng biết phải làm gì. Thử nói xem, thế nào là con mắt nhìn thấu quan và chỗ để chuyển thân. Xin thử nêu lên xem.

CỬ: Có ông tăng hỏi Triệu Châu, "Triệu Châu là gì? “ Triệu Châu nói, “Đông môn, nam môn, tây môn, bắc môn.”

BÌNH: Phàm việc tham thiền hỏi đạo là để tự thấy rõ mình, song phải tránh so đđo ngôn ngữ. Tại sao? Há không nghe Triệu Châu tụng cử rằng, “Đạo thật không khó, miễn đừng so đo” sao? Hoặc Vân Môn từng nói, “ Ngày nay những kẻ học thiền, tụm năm tụm ba, huyên thuyên bát sách rằng, “đây là những lời đặc biệt, đây là những lời có liên hệ đến bản thân mình,” Đâu có biết rằng cổ nhân dựa vào phưong tiện thiện xảo, bất đắc dĩ mà lập văn tự ngôn ngữ là chỉ vỉ để dẫn dắt những kẻ hậu học non kém, chưa rõ tâm địa, chưa thấy bổn tính, chưa thoát khỏi chấp trước. Tổ Sư ( Bồ Đề Đạt Ma) từ Tây Trúc qua, chỉ để truyền tâm ấn ( của Phật), chỉ thẳng vào tâm, thấy tính thành Phật, làm gì có những cái dây dưa như vầy? Cần phải cắt đứt ngôn ngữ, để đặc biệt thấy sự thật. Có thoát ra khỏi mọi chấp trước, mới như rồng gặp nước, hổ dựa núi được.

Những bậc cổ đức xưa tham Thiền lâu mà chưa thấu, thấu mà chưa sáng,[22]gọi đó là “hỏi thêm”[23]. Nếu như đã thấu mà vẫn hỏi thêm, thì phải xoay chuyển mãi trong ngôn ngữ cho đến khi nào không còn trệ ngại nữa. Người đã tham Thiền lâu và vẫn hỏi thêm, ấy là đưa thang cho giặc. Kỳ thực, việc này không ở nơi ngôn ngữ, cho nên Vân Môn mới nói, “ Việc này nếu ở nơi ngôn ngữ , ba thừa và mười hai phần giáo há không phải là ngôn ngữ, cần gì mà Tổ Đạt Ma phải từ Tây Trúc qua? Trong mười tám loạicâu hỏi của Phần Dương[24]thì đầy được coi là loại câu hỏi để thử thách chủ. Cũng còn được gọi là loại câu hỏi để thăm dò.

Ông tăng đặt câu hỏi này, quả là đặc sắc, ngoài Triệu Châu ra hẳn ai cũng càm thấy rất khó mà đương đầu với ông ta. Ông tăng hỏi, “Triệu Châu là gì?” Triệu Châu bản thân vốn là tay thành thạo, cho nên bèn trả lời, “Đông môn, nam môn, tây môn, bắc môn.” Ông tăng nói “Đệ tử không hỏi Triệu Châu này.” Triệu Chấu nói, “ Thế chú hỏi Triệu Châu nào?” Sau này có người gọi đó là vô sự Thiền”, lừa dối thiên hạ không phải ít. Tại sao vậy? Ông tăng hỏi Triệu Châu, Triệu Châu đáp, “Đông môn, nam môn, tây môn, bắc môn.” Cho nên mới có người bảo rằng thầy ta chỉ trả lời về Triệu Châu kia.Nếu mà ông hiểu như thế thì bọn nhà quê cũng hiểu Phật Pháp. Chỉ như vậy cũng đủ làm Phật pháp diệt vong. Như thế thì có khác gì đem mắt cá đi so sánh với ngọc trai, giống thì có giống nhưng mà không phải là một. Như lão tăng đã nói, không ở Hà Nam thì ở Hà Bắc. Thử nói xem, là hữu sự hay vô sự? Cần phải cẩn trọng lắm mới được.

Lục Công Viễn nói, “Câu cuối cùng mới đến gần cửa đóng, yếu chỉ chính không ở tại ngôn ngữ:mười ngày một cơn gió, năm ngày một cơn mưa. An bang lạc nghiệp, vỗ bụng âu ca. Đây gọi là thời tiết thái bình. Cái gọi là vô sự, không phải giả đui mà gọi là vô sự. Phải nhìn thấu được then chốt, vượt qua được rừng gai góc, tự tại thánh thoát, giống như một người bình thường trước đó, song lúc ấy tùy mình, hữu sự cũng được mà vô sự cũng được. Bốn phương tám hướng tung hoành, không còn chấp không làm có nữa. Có người nói, “ Vốn dĩ chẳng có việc gì cả, có trà uống trà, có cơm ăn cơm.” Đây đúng là đại vọng ngữ, tôi gọi đó là chưa đắc mà tưởng là mình đắc, chưa chứng mà tưởng là mình chứng. Nguyên lai vố vốn chưa tham thấu được, lúc nghe người ta nói tâm nói tính, nói huyền nói diệu bèn bảo, “Đó chỉ là cuồng ngôn bản lai vốn chẳng có gì cả.” Đây đúng là một kẻ mù dắt một bọn mù. Đâu có biết rằng lúc Tổ Sư chưa tới, có đời nào người ta lại gọi trời là đất, gọi núi là sông? Tại sao Tổ Sư còn phải từ Tây Trúc đến nữa? Các nơi nhập thất thăng tòa để nói cái gì? Toàn là tri thức cảm quan và khái niệm hóa. Chỉ khi tri thức cảm quan và khái niệm hóa dứt bặt mới có thể nhìn thấu được. Nếu nhìn thấu được rồi thì y như xưa trời là trời, đất là đất, núi là núi, sông là sông.

Cổ nhân nói, “Tâm là căn, pháp là trần[25], cả hai giồng như tỳ vết trong gương.”Tỳ vết sạch hết gương mới sáng, tâm pháp đều quên tính là chân[26]. Đến giới cảnh giới này tự nhiên được tự tại thánh thoát. Dù cho là cùng cực của lý luận đi nữa cũng chưa hẳn là chốn an ổn. Đến chỗ này người ta thường hay hiểu lầm, cho nên Phật cũng không lễ mà hương cũng chẳng thắp. Giống thì có giống song làm sao mà đã có thể gọi là thánh thoát tự tại được? Mới hỏi họ, thì họ làm như là đã đạt đến cùng cực, nhưng mà hỏi dồn thêm nữa, họ lại đâm ra lúng ta lúng túng.Họ ngồi đó với bụng trống tâm cao, song khi ngày cuối tuần gần kề thì có xoa tay đập ngực đi nữa cũng đã quá trễ. Ông tăng hỏi như thế, Triệu Châu trả lời như thế. Thử nói xem, phải rờ rẫm như thế nào? Như vầy không được, không như vầy cũng không được. Rốt cuộc như thế nào? Mấy cái này chính là chỗ khó. Cho nên Tuyết Đậu mới nêu ra để chỉ cho thiên hạ.

Một hôm Triệu Châu đang ngồi, thị giả vào bảo rằng, “Đại vương đến”. Triệu Châu ngạc nhiên nói, “Đại vương vạn phúc.” Thị giả nói, “Bạch hòa thượng đại vương chưa đến, Triệu Châu nói, “ Thế mà chú lại bảo là đã đến.” Thầy đến chỗ này quả là kỳ đặc. Nam Thiền Sư niệm rằng, “ Thị giả chỉ biết báo khách, không biết thân tại đế hương. Triệu Châu rẽ cỏ tìm người, không khỏi thân đầy bùn nước.” Các ông muốn biết sự thật về vấn đề này chăng? Xin đọc tụng của Tuyết Đậu.

TỤNG: 

Trong câu vấn để trình thẳng đến,

Trong mắt kim cương[27] không hạt bụi.

Đông nam tây bắc đối diện nhau,

Bao nhiêu trùy đập mở không ra.

BÌNH: Triệu Châu xử trí với hoàn cảnh giống như Kim Cương Bảo Kiếm. Ông vừa định suy nghĩ nói đã cắt mất đầu ông rồi. Nó lại thường móc mắt ông ngay trước mặt ông. Tuy nhiên ông tăng này dám vuốt râu cọp mà đặt một câu hỏi. Giống như không có chuyện lại đi bày vẽ ra chuyện như thể trong câu có vấn đề. Ông ta đã đặt vấn để ra, Triệu Châu cũng chẳng phụ lòng ông ta, cho nên cũng đáp lại vấn đề. Không phải thầy ta đặc biệt như thế, bởi vì thầy ta là người đã thấy suốt, cho nên mới biết hòa điệu với ông tăng kia, tựa như thể có an bài trước.

Há không nghe nói có một ngoại đạo cầm một con chim sẽ trong tay đến hỏi Phật, “ Thử nói xem, con chim trong tay tôi là sống hay chết?” Phật bèn ra đứng giữa ngưỡng cửa hỏi, “Ông thử nói xem tôi đang ra hay vào?”[28]. Ngoại đạo không nói được, bèn cúi lạy.Câu chuyện này cũng giống như công án trên, từ đó huyết mạch của cổ nhân không bị đứt đoạn. Cho nên có lời nói rằng, “ Câu hỏi nằm trong câu trả lời, câu rả lời nằm trong câu hỏi.”

Tuyết Đậu nhìn thấu sự vật như thế cho nên nói”. Trong câu vấn đề trình thẳng tới”. Trong câu có vấn đề lại giống như có hai nghĩa. Giống như hỏi người lại cũng giống như hỏi cảnh. Triệu Châu chẳng di dịch một mảy may bèn trả lời, “Đông môn, nam môn, tây môn, bắc môn.” Trong mắt kim cương không hạt bụi.” Câu tụng này Triệu Châu đoạt cả người lẫn cảnh, đặt vấn đề trong câu cũng như trả lời ông tăng. Đây gọi là có vấn đề, có đối tượng. Thoáng một cái đã trông thấy tâm can ông tăng kia. Nếu không như thế Triệu Châu khó mà so nổi với câu hỏi của ông tăng kia. Thược –ca-la tiếng Phạn có nghĩa là kiên cố, cũng có nghĩa là kim cương, ngụ ý đôi mắt chiếu sáng vô ngại. Không những chỉ có thể nhìn thấy một sợi lông cách xa ngàn dặm mà còn có thể quyết định tà chính, phân biệt đắc thất, thấy được hoàn cảnh thích hợp, biết được đúng sai.

Tuyết Đậu nói, “Đông tây nam bắc đối diện nhau, bao nhiêu trùy đập không mở ra, “Đã đập đến bao nhiêu nhát trùy cớ sao lại không tập trung ra được? Phải chăng chổ thấy của Tuyết Đậu là như thế? Các ông làm thế nào để mở cửa này ra đây? Xin suy niệm cho cặn kẽ.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18430)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19911)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19588)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33490)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34608)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54601)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37834)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21201)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17952)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63769)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17447)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49763)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16909)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16430)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14522)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22536)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 57091)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13893)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29072)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33377)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38442)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31289)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13948)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14662)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14321)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12686)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14875)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19235)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13859)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12707)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30475)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11878)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30758)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29460)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30673)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31289)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37177)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32327)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23746)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12258)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14254)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14118)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 34033)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27778)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12484)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28707)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29430)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12465)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29289)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 28096)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25737)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26091)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22324)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33208)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31859)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39643)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22510)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34546)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27404)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28443)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant