Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Bốn Mươi Tám: Vương Thái Phó Nấu Trà

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15335)
Tắc thứ Bốn Mươi Tám: Vương Thái Phó Nấu Trà

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 5

TẮC THỨ BỐN MƯƠI TÁM

VƯƠNG THÁI PHÓ NẤU TRÀ

 

CỬ: Vương Thái Phó vào Chiêu Khánh Tự để nấu trà. Lúc ấy Lăng Thượng Tọa đang cầm ấm trà cho Minh Chiêu. LãngThượng Tọa lật ấm trà. Thấy thế Vương Thái Phó hỏi Lãng Thượng Tọa,” Dưới lò trà có gì vậy?” Lãng Thượng Tọa nói, “ Thần hộ lò.” Vương Thái Phó nói, “Đã là thần hộ lò thì tại sao ấm trà lại lật?” Lãng Thượng Tọa nói, “ Làm quan trăm ngày, mất chức một buổi.” Vương Thái Phó rũ áo bỏ ra.

Minh Chiêu nói, “Lãng Thượng Tọa ăn cơm của Chiêu Khánh lại đi ra ngoài song mà nhặt củi.” Lãng Thượng Tọa nói, “Thế hòa thượng thì sao?” Minh Chiêu nói, “Thần được lợi.”

Tuyết Đậu nói, “Lúc ấy phải đạp đổ lò trà mới phải.”

BÌNH: Muốn hiểu Phật tính phải quán thời tiết nhân duyên. Vương Thái Phó làm tri châu ở Tuyên Châu, học Thiền với Chiêu Khánh từ lâu. Một hôm lúc vào tự viện nhân khi Lãng Thượng Tọa đang nấu trà, Lãng Thượng Tọa lật ấm trà. Thái Phó cũng là tay chuyên gia, cho nên vừa thấy Lãng Thượng Tọa lật ấm trà đã hỏi, “ Dưới lò nấu trà có gì vậy?” Khi Lãng Thượng Tọa nói, “ Có thần hộ lò,” quả thật trong lời ấy có âm vọng. song làm gì được khi mà đầu đuôi mâu thuẫn, đánh mất tông chỉ, để mũi nhọn đâm vào tay. Như thế không những đã tự cô phụ mình mà còn động chạm đến người khác.

Tuy rằng đây không phải là một việc có được thua, song một khi vừa nêu lên thì lại như cũ có thân sơ, có người trong kẻ ngoài. Nếu như luận về việc này thì nó chẳng ở nơi ngôn ngữ, song các ông vẫn cứ phải dựa vào ngôn ngữtìm ra chỗ sống động của nó. Cho nên mới có câu nói, “ Chỉ tham câu sống mà không tham câu chết.” Lãng Thượng Tọa nói như thế chẳng khác gì con chó điên đuổi theo cục đất. Vương Thái Phó rũ áo bỏ ra, tựa như không chấp nhận thầy ta.

Minh Chiêu nói, “Lãng Thượng Tọa ăn cơm của Chiêu Khánh lại đi ra ngoài song mà nhặt củi khô.” Củi khô đây tức là những nhánh cây bị lửa hoang đốt cháy. Minh Chiêu nói như thế là để giải minh rằng Lãng Thượng Tọa không đi đúng đường mà đi trệch lối. Lãng Thượng Tọa lại dồn thầy ta nói rằng, “Thế hòa thượng thì sao?” Minh Chiêu nói, “Thần được lời.” Minh Chiêu đã có xuất thân mà lại cũng không cô phụ câu hỏi của Lãng Thượng Tọa. Cho nên mới có câu nói rằng, “ Chó khôn cắn người không lộ răng.”

Qui Sơn Triết Hòa Thượng nói, “ Vương Thái Phó giống y như Lạn Tương Như đoạt ngọc, đến nỗi râu ria chĩa ra khỏi hai bên mũ.” Minh Chiêu khó giấu được cái thông minh của mình, cho nên khó gặp được điểm tiện lợi. Nếu như tôi là Lãng Thượng Tọa, vừa trông thấy Vương Thái Phó rũ áo bỏ ra, là lập tức buông ấm trà xuống rồi ha hã cười lớn. Tại sao vậy? Thấy mà không giữ , ngàn năm khó gặp.

Há không nghe Bảo Thọ hỏi Hồ Đinh Giảo, “Lâu nay vẫn nghe tiếng Hồ Đinh Giảo, phải chăng là người ấy?” Hồ nói, “Vâng” Bảo Thọ nói, “Thế có đóng đinh vào hư không được chăng?” Hồ nói, “Mời thầy đến phá cho.” Bảo Thọ bèn đánh. Hồ không chịu, Bảo Thọ nói, “Sau này sẽ có một ông thầy nói nhiều đến đã phá cho ông.” Sau đó Hồ gặp Triệu Châu, bèn thuật lại câu chuyện trên. Triệu Châu nói, “Tại sao ông lại bị thầy ta đánh?” Hồ nói, “Tôi không hiểu mình có lỗi ở chỗ nào?” Triệu Châu nói, “ chỉ có cái kẽ này mà ông cũng không làm gì được thì bảo thầy ta đến đánh phá hư không để làm gì?” Hồ bèn thôi không thắc mắc nữa. Triệu Châu bèn nói hộ, “Thử đóng đinh vào kẽ này xem.” Hồ bèn tĩnh ngộ.

Kinh Triệu Mễ Thất Sư đi hành cước về, có bậc lão túc kia hỏi rằng, “Giải lụa trong đêm trăng, ai cũng bảo là rắn. Không hiểu lúc Thất Sư thất Phật thì gọi là gì?” Thất Sư nói, “Nếu có chỗ thấy, thì đồng với chúng sinh. Vị lão túc kia nói, “Đây đúng là hột đào ngàn năm mới nẩy mầm.”

Trung Quốc Sư hỏi vị Tử Lân Cung Phụng, “Nghe nói Cung phụng có viết chú giải cho Kinh Tư Ích, phải vậy chăng?” Cung phụng nói, “Vâng”. Quốc Sư nói, “Phàm muốn chú kinh, trước tiên phải hiểu ý của Phật mới được.” Cung Phụng nói, “Nếu như tôi không hiểu ý Phật, làm sao tôi dám nói là tôi chú giải kinh?” Quốc Sư bèn dạy thị giả bưng vào một chén nước, bẩy hạt gạo, và một chiếc đũa. Quốc Sư bỏ cả vào chén rồi đưa tới cho Cung Phụng, hỏi rằng, “ Như vậy là nghĩa gì đây?” Cung Phụng nói, “Tôi không hiểu.” Quốc Sư nói, “Ý của lão sư mà thầy cũng không hiểu, thế mà đòi đi hiểu ý Phật. Không phải chỉ có Vương Thái Phó và Lãng Thượng Tọa là có những đối thoại như trên.

Cuối cùng Tuyết Đậu nói, “Lúc ấy phải đạp đổ lò nấu trà mới phải.” Minh Chiêu tuy rằng như thế song rốt cuộc vẫn không bằng được Tuyết Đậu.Tuyết Phong có dạo là, đuầ bếp trong chúng hội của Động Sơn.Một hôm lúc Tuyết Phong đang vo gạo, Động Sơn hỏi, “Vo gạo để khử cát hay là vo cát để khử gạo?” Tuyết Phong nói, “Khử cả cát lẫn gạo một lúc.” Động Sơn hỏi, “Vậy thì đại chúng ăn cái gì?” Tuyết Phong bèn lật úp cái rổ. Động Sơn nói, “Nhân duyên của ông không phải là ở đây.” Tuy thế làm sao có thể giống với Tuyết Đậu nói, “Lúc ấy phải đạp đổ lò nấu trà mới phải.” Đó là thời tiết gì vậy? Dụng xứ của thầy ta tự nhiênchói sáng cho các thế hệ sau này, có chỗ giải thoát sống động. Tụng rằng:

TỤNG

Đến hỏi như gió thổi,

Ứng cơ không thiện xảo.

Buồn thay Độc Nhãn Long!

Chưa phô bầy nanh vuốt.

Nanh vuốt mở,

Sinh sấm sét.

Con sóng ngược dòng mấy bận về.

BÌNH: “Đến hỏi như gió thổi, ứng cơ không thiện xảo.” Câu hỏi của Vương Thái Phó giống như thể múa rìu sinh gió. Tích này xuất phát từ sách Trang Tử: Có người ở Dĩnh đang xây tường đất, chỉ còn một lỗ hổng nhỏ, bèn vo mộtviên bùn để lấp đầy. Lúc ấy có một đốm bùn rơi trên đầu mũi người ấy. Bên cạnh có một tay múa rìu nói, “Ông xây tường khéo lắm, để tôi dùng búa lấy đốm bùn trên đầu mũi hộ cho ông.” Mặc dù đốm bùn trên mũi ông ta chỉ nhỏ như cánh con ruồi ông ta vẫn bằng lòng để cho người múa rìu kia lấy hộ. Người kia múa rìu, vun vút thành gió đánh bạt đốm bùn kia đi mà không làm tổn thương mũi. Người ở Dĩnh vẫn đứng thản nhiên. Đây chính là cái gọi là sự xảo diệu của cả hai bên. Lãng Thượng Tọa tuy có ứng cơ, song lời của ông ta không thiện xảo. Cho nên Tuyết Đậu mới nói, “Đến hỏi như gió thổi, ứng cơ không thiện xảo.”

“Buồn thay Độc Nhãn Long, chưa phô bày nanh vuốt.” Minh Chiêu cũng nói một cách hết sức kỳ đặc. Có điều chưa có được thứ nanh vuốt đủ để bắt mây chụp sương. Tuyết Đậu tuy là bàng quan song không nhịn được ra sức hộ cho Minh Chiêu.

Tuyết Đậu ngầm hợp với ý của Vương Thái Phó, tự tụng việc đạp đỗ lò nấu trà rằng, “Nanh vuốt mở, sinh sấm sét. Con sông ngược dòng mấy bận về.” Vân Môn nói, “Không mong ông có sóng ngược dòng, chỉ cần có cái ý xuôi dòng là được rồi. Cho nên mới có câu nói, “Nếu như hiểu được câu sống, mãi mãi sẽ không bao giờ quên.” Những lời nói của Lãng Thượng TọaMinh Chiêu tựa như chết. Nếu như các ông muốn thấy chỗ sống, cứ việc nhìn Tuyết Đậu đạp đổ lò nấu trà.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18430)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19904)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19584)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33489)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34606)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54596)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37833)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21201)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17950)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63767)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17443)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49759)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16909)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16425)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14521)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22536)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 57086)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13892)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29069)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33376)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38442)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31286)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13945)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14657)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14321)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12685)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14875)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19235)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13856)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12706)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30474)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11877)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30752)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29456)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30670)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31283)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37174)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32324)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23744)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12257)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14254)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14118)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 34028)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27777)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12480)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28701)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29425)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12463)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29287)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 28091)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25732)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26089)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22321)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33207)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31853)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39638)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22506)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34541)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27404)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28441)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant