Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Ba Mươi Tám: Trâu Sắt Của Phong Huyệt

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15582)
Tắc thứ Ba Mươi Tám: Trâu Sắt Của Phong Huyệt

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 4

TẮC THỨ BA MƯƠI TÁM

TRÂU SẮT CỦA PHONG HUYỆT

 

THÙY: Nếu luận về tiệm, tức đi ngược lại cái thường hợp với đạo. Xoay trở lung tung trong chốn chợ ồn ào. Nếu luận về đốn, thì không để lại dấu vết, ngàn thánh cũng không biết đâu mà rờ. Thảng hoặc không lập đốn tiệm thì như thế nào? Người nhanh trí chỉ cần một lời, ngựa chạy nhanh chỉ cần một roi. Đúng vào lúc ấy, ai là người chủ động? Thử nêu lên xem.

CỬ: Trong nha môn ở Đinh Châu, Phong Huyệt thượng đường nói, “Tâm ấn của Tổ Sư giống như cái máy trong con trâu sắt, lấy đi thì ấn còn, trụ lại thì ấn phá. Còn như nếu không khử không trừ, thì ấn là đúng hay không ấn là đúng?

Lúc ấyTrưởng Lão Lư Pha bước ra hỏi, “Kẻ hèn này có cái máy của trâu sắt, xin thầy đừng đóng ấn.” Phong Huyệt nói, “ Quen câu kình ngư khuấy biển lớn, lại gặp nhái bén lội trong bìn.” Lư Pha đứng đó suy nghĩ. Phong Huyệt hét, “Trưởng Lão, sao không nói tiếp đi?” Lư Pha vừa toan biện bạch, Phong Huyệt đã lấy phất trần đánh cho một cái. Phong Huyệt nói, “Còn nhớ thoại đầu không? Thử nêu lên xem?” Lư Pha vừa định mở miệng, Phong Huyệt lại dùng phất trần đánh nữa.

Mục chủ nói, “Phật pháp là một với vương pháp.” Phong Huyệt nói, “Ngài thấy được đạo lý gì vậy?” Mục chủ nói, “Không đoạn cái phải đoạn, lại chỉ gây rối loạn.” Phong Huyệt bèn bước xuống khỏi tòa.

BÌNH: Phong Huyệt là bậc tôn túc trong giòng của Lâm Tế. Thuở ban đầu Lâm Tế cũng ở trong chúng hội của Hoàng Bá. (Một hôm) lúc Lâm Tế đang trồng cây tùng, Hoàng Bá nói, “Trong chốn thâm sơn như vầy trồng nhiều tùng như thế để làm gì?” Lâm Tế nói, “Thứ nhất là để làm cảnh cho tự viện, thứ hai là để làm bảng hiệu cho người đời sau.” Nói xong bèn lấy xuổng bới đất. Hoàng Bá nói,” Tuy sự thật là thế, song ông cũng đã ăn hai chục gậy rồi.” Lâm Tế lại bới đất một lần nữa rồi thở hổn hển. Hoàng Bá nói, “Tông môn của chúng ta đến ông là có thể hưng thịnh trong đời vậy.”

Quí Sơn Triết nói, “Lâm Tế giống như thể trên đất bằng gây sóng, tuy là như thế, nhưng mà chỉ khi nào người ta có thể bình tĩnh lúc lâm nguy mới đáng được gọi là bậc đại trượng phu chân chính.” Hoàng bá nói, “Tông môn của chúng ta đến ông là có thể hưng thinh trong đời vậy.” Tựa như thể thương con mà không biết xấu. sau đó Qui Sơn hỏi Ngưỡng Sơn, “Lúc ấy Hoàng Bá chỉ truyền cho một mình Lâm Tế hay còn có ai khác nữa?” Ngưỡng Sơn nói, “Có chứ, có điều thời đại xa xưa quá rồi cho nên đệ tử không muốn nói cho hòa thượng làm gì.” Qui Sơn nói, “Tuy là thế, song ta vẫn muốn biết, ông thử nói xem sao.” Ngưỡng Sơn nói, “Một người chỉ về phương nam, mệnh lệnh được thi hành ở Ngô Việt, gặp gió lớn mới hưng.” Đây chính là lời tiên tri về Phong Huyệt vậy.

Phong Huyệt thoạt tiên tham học với Tuyết Phong trong năm năm. Có lần xin chỉ thị về câu chuyện sau đây: “Lâm Tế bước vào sảnh đường, các thủ tòa hai bên đều hét lên cùng một lượt. Có ông tăng hỏi Lâm Tế, “Còn có chủ khách nữa hay không?” Lâm Tế nói, “ Chủ khách hiển nhiên ra đó.” Phong Huyệt nói, “Đệ tử chưa hiểu ý nghĩa của công án này là như thế nào?” Tuyết Phong nói, “Thuở xưa ta với Nham Đầu và Khâm Sơn đi gặp Lâm Tế, giữa đường nghe tin rằng thầy ta đã thiên hóa. Nếu như ông muốn hiểu công án về chủ khách này, cần phải tham kiến các bậc tôn túc trong tông phái của thầy ta.”

Sau đó Phong Huyệt lại gặp Thúy Nham. Thúy Nham thường tự gọi, “Này ông chủ!” Rồi lại tự đáp, ”Vâng!” Cũng lại nói, “Hãy tỉnh táo, sau này đừng để thiên hạ lừa.” Phong Huyệt nói, “Tự niêm tự lộng có gì là khó?” Sau đó cũng kiết hạ với Quách Thị Giả ở Lộc Môn, Tương Châu. Quách Thị Giả khuyên Phong Huyệt đến gặp Nam Viện. Phong Huyệt nói, “Vào nhà thì phải phân biện chủ khách, cho nên xin để thầy phân xử.”

Một hôm gặp Nam Viện, Phong Huyệt thuật lại công án trên rồi nói, “Kẻ hèn này đến chính là để tham khảo về việc đó.” Nam Viện nói, “ Tuyết Phong là bậc cổ Phật.”

Một hôm Phong Huyệt gặp Kính Thanh. Kính Thanh hỏi, “Thầy mới từ đâu đến vậy?” Phong Huyệt nói, “Từ phương đông đến.” Kính Thanh nói, “Thuyền lớn bay trên trời, sông nhỏ không qua được.” Kính Thanh nói, “Nước gương núi về, chim qua không được. Phải chăng ông nghe lén di ngôn?” Phong Huyệt nói, “ Biển xanh còn sợ thế tầu lớn, liệt hán dương buồm vượt năm hồ.” Kính Thanh dơ phất trần lên nói, “Còn cái này thì như thế nào?” Phong Huyệt nói, “Còn cái này thì như thế nào?” Phong Huyệt nói, “Cái này là cái gì vậy?” Kính Thanh nói, “Quả nhiên là ông không biết.” Phong Huyệt nói, “ Biến hiện cuốn mở, cùng một cái dụng với thầy.” Kính Thanh nói, “Đoán mò nghe lời rỗng, ngủ say nói mê man.” Phong Huyệt nói, “Đầm rộng chứa núi, cáo thắng được beo.” Kính Thánh nói, “ Tôi tha tội thứ lỗi cho ông, ông mau đi đi.” Phong Huyệt nói, “Đi là thua” Rồi bèn đi ra, đến Pháp Đường tự nói với mình, “Đại trượng phu, công án chưa xong , làm sao có thể bỏ ngang được?” Lại trở vào phương trượng, thấy Kính Thanh ngồi đó bèn hỏi, “Vừa rồi tự trình kiến giải thô lậu, xúc phạm đến tôn nhan, may mà được hòa thượng rủ lòng từ bi không trách phạt.” Kính Thanh nói, “ Vừa rồi ông bảo là từ phương đông đến, phải chăng là từ Thúy Nham đến?” Phong Huyệt nói, “ Tuyết Đậu ở phía đông của Bảo Cái.” Kính Thanh nói, “Đừng đuổi dê lạc hiểu lầm dứt, rồi lại đến đây ngâm bài thơ.” Phong Huyệt nói, “ Gặp bậc kiếm khách nên dâng kiếm, không phải thi nhân dừng tặng thơ.” Kính Thanh nói, “ Mau gạt thơ qua một bên, thử dùng kiếm xem sao.” Phong Huyệt nói, “ Kẻ bị chặt đầu đem kiếm đi rồi.” Kính Thanh nói, “Không những đã phạm phong hóa, còn lộ đầu mít đặc.” Phong Huyệt nói, “ Nếu không phạm phong hóa, sao hiểu cổ Phật tâm?” Kính Thanh nói, “ Cổ Phật tâm là gì?” Phong Huyệt nió, “Lại chấp nhận nữa, bây giờ thầy có gì?” Kính Thanh nói, “Ông tăng từ phương đông đến này không phân biệt được đậu và lúa mạch.” Phong Huyệt nói, “ Chỉ nghe không dứt mà dứt, làm sao có thể buộc nó dứt mà nó dứt được?” Kính Thanh nói, “Sóng lớn dâng ngàn trường, ba đào không lìa nước. Một câu cắt đứt dòng tư tưởng, vạn cơ lập tức tự tịch diệt.” Phong Huyệt bèn cúi lạy. Kính Thanh lấy phất trần điểm vào người Phong Huyệt ba lần rồi nói, “ Hùng vĩ thay, bây giờ ngồi xuống dùng trà đi.”

Lúc Phong Huyệt mới đến gặp Nam Viện, bước vào mà không cúi lậy. Nam Viện nói, “ Vào nhà phải biết nhìn xem ai là chủ nhân chứ!”Phong Huyệt nói, “ Xin mời thầy phân biện rõ ràng.” Nam Viện dùng tay trái vỗ lên đầu gối một cái. Phong Huyệt bèn hét. Nam Viện bèn dùng tay phải vỗ lên đầu gối một cái. Phong Huyệt cũng hét. Nam Viện bèn dơ tay trái lên rồi nói, “ Cái này xin theo thầy.” Rồi lại dơ tay phải lên nói, “Còn cái này thì như thế nào?” Phong Huyệt nói, “Mù!” Nam Viện bèn dơ gậy lên. Phong Huyệt nói, “ Hòa thượng làm gì vậy?Thế nào tôi cũng giựt gậy mà đánh cho, lúc ấy chớ có bảo là tôi không nói trước.” Nam Viện nói, “Hôm nay ta bị gã, mặt vàng miền Chiết Giang này chọc quê.” Phong Huyệt nói, “ Hòa thượng không ôm nổi bình bát, đừng giả bộ nói là mình không đói.” Nam Viện nói, “ Thầy có đến nơi này bao giờ chưa?” Phong Huyệt nió, “ Nói vậy là ngụ ý gì thế?” Nam Viện nói, “ Chỉ hỏi vậy mà thôi.”Phong Huyệt nói, “Vẫn chưa thể buông tha được.” Nam Viện nói, “Ngồi xơi trà đi.”

Các ông thử nhìn xem các bậc anh tuấn trong Thiền thường có cơ phong sắc bén như vậy đấy. Ngay cả Nam Viện cũng không nhìn ra được thầy ta ( Phong Huyệt). Đến hôm sau Nam Viện chỉ hỏi một câu hỏi bình thường, “Mùa hè này thầy ở đây?” Phong Huyệt nói, “Tôi quá hạ ở Lộc Môn cùng với Quách Thị Giả.” Nam Viện nói, “Té ra là troúc khi đến đây ông đã gặp một chuyên gia rồi.” Rồi lại nói, “Quách Thị Giả nói gì với ông vậy?” Phong Huyệt nói, “Thủy chung thầy ta chỉ dạy tôi lúc nào cũng phải đóng vai chủ.” Nam Viện bèn đánh và xô ra khỏi phương trượng vừa nói, “Kẻ chịu thua như vậy thì còn dùng được vào việc gì nữa!”

Phong Huyệt từ đó chịu phục và làm người làm vườn ở nơi chúng hội của Nam Viện. Một hôm Nam Viện vào vườn hỏi, “Ở phương nam thiên hạ thương lượng về một chiếc gậy như thế nào?” Phong Huyệt nói, “Thương lượng một cách hết sức đặc biệt.Còn ở đây thì như thế nào,bạch hòa thượng?” Nam Viện dơ gậy lên nói, “Dưới gậy vô sinh nhẫn,gặp cơ không nhường thầy.” Phong Huyệt nghe thế bèn hoát nhiên đại ngộ.

Lúc ấy là vào thời Ngũ Đại ly loạn. Vị châu mục của Đinh Châu mời Sư (Phong Huyệt) đến kiết hạ ở đó. Lúc ấy tông phái của Lâm Tế thịnh hành vô cùng. Bất cứ vấn đáp hay giảng dạy. lúc nào lời lẽ của Sư cũng sắc bén hết sức. Rải hoa kết gấm, mỗi chữ đều là cốt yếu. Một hôm châu mục mời sư thượng đường dạy chúng. Sư nói, “Tâm ấn của Tổ Sư giống như cơ thể cơ quan của con trâu sắt. Không có chỗ nào để cho các ông điều động cả. Ông vừa lấy đi thì ấn trụ, ông vừa để lại thì ấn phá, khiến các ông lúng túng vô cùng. Song nếu như các ông không lấy đi không để lại, thì có ấn cũng được mà không có ấn cũng được.” Tại sao lại không giống như cái máy của con trâu sắt? Không có chỗ để cho các ông điều động. Ông lấy đi thì ấn trụ, ông để lại thì ấn phá, khiến các ông lúng túng vô cùng. Còn nếu như các ông không lấy đi không để lại thì có ấn cũng thế mà không có ấn cũng thế. Nhìn xem cách Sư giảng dạy, đúng là đầu lưỡi câu có mồi.

Lúc ấy trong cử tọa có vị Trưởng lão tên là Lư Pha, cũng là bậc tôn túc trong dòng Lâm Tế. Lư Pha dám xuất đầu lộ diện để đối cơ với Phong Huyệt bằng một cách hết sức đặc sắc là chuyển thoại đầu của Sư thành câu hỏi rằng, “Tôi có cái máy của con trâu sắt, xin thầy đừng đóng ấn.” Ai dè Phong Huyệt là một tay chuyên gia cho nên bèn đáp rằng, “ Quen câu kình ngư khuấy biển lớn, lại gặp nhái bén lội trong bùn.” Cũng là trong lời nói có tiếng vọng. Vân Môn nói, “Thả câu bốn biển, chỉ câu mãnh long. Huyền cơ đặc biệt, chỉ tìm tri kỷ.”

Trong biển lớn dùng mưòi hai con trâu để làm mồi câu, song lại chỉ câu được mỗi con nhái.Lời này đã chẳng có gì là huyền diệu mà lại cũng chẳng có đạo lý gì để mà so đo. Cổ nhân nói, “Nếu chỉ nhìn nơi sự vật thì dể, còn nếu như đi so đo bằng ý căn ắt chẳng có gì là nhằm nhò cả. Lư Pha đứng đó mà suy tư. Trông thấy nó mà không biết nắm lấy, ngàn năm e khó gặp được nữa. Đáng tiếc thay! Cho nên mới có câu nói rằng, “Dù cho giảng được ngàn kinh luận, một câu hợp thời khó thốt ra.”

Kỳ thực Lư Pha toan tìm ra những lời hay đẹp để đáp lại Phong Huyệt, không muốn thi hành mệnh lệnh, song rốt cuộc lại bị Phong Huyệt bức bằng thứ cơ phong “cướp cờ đoạt trống.” Trưỡng Lão không còn biết phải làm gì. Giống như lời ngạn ngữ nói, “Bại trân không khỏi bị chổi cỏ quét sạch.” Thoạt đầu vẫn cần phải tìm thương pháp để đối địch, song đợi đến khi tìm được thì đầu đã bị rơi xuống đất rồi.

Vị châu mục cũng học Thiền với Phong Huyệt rất lâu, ông ta biết nói, “Phật pháp với Vương pháp là một.” Phong Huyệt nói, “Ông thấy được cái gì?” Châu mục nói, “Không đoán định được những cái phải đoán định rốt cuộc chỉ gây loạn.” Phong Huyệt là cả một khối tâm linh giống như thể một hồ lô trên mặt nước, ấn nó xuống thì nó quay vòng, đè nó xuống thì nó động. Phong Huyệt biết tùy cơ thuyết Pháp, nếu như không hợp với cơ thì rốt cuộc chỉ là những lời loạn ngữ mà thôi. Phong Huyệt bèn xuống khỏi tòa.

TỤNG

Bắt được Lư Pha cưỡi trâu sắt,

Thương giáp tam huyền khó chống cứ.

Bên thành vua Sở nước triều lên,

Hét lên làm nước chảy ngược chiều.

BÌNH: Tuyết Đậu biết Phong Huyệt có tông phong như thế cho nên mới tụng rằng, “ Bắt được Lư Pha cỡi trâu sắt, thương giáp tam huyền khó chống cự.” Trong tông phái của Lâm Tếtam huyền tam yếu. Trong một câu phải có đủ cả tam huyền, trong một huyền phải có đủ cả tam yếu. Có ông tăng hỏi Lâm Tế, “Thế nào là câu thứ nhất?” Lâm Tế nói, “ An tấm ấn mở điểm son hẹp, không để so đo chủ khách phân.” Thế nào là câu thứ nhì?” Lâm Tế nói, “Diệu biện há không dùng câu hỏi, phương tiện không phụ cơ cắt dòng.” Thế nào là câu thứ ba?” Lâm Tế nói, “Cứ nhìn người nộm trên sân khấu, kéo giựt đều nơi kẻ ở trong.”

Trong một câu của Phong Huyệt đã có đầy đủ cả thương giáp của tam huyền, thật sự tùy thân cho nên không dễ gì ai chống cự được. Nếu như Sư không như thế thì làm gì được Lư Pha? Sau cùng Tuyết Đậu muốn nêu ra cái cơ phong của Lâm Tế, đừng có nói là Lư Pha,cho dù là bên thành của Sơ vương, sóng cả chập chùng, ba đào lồng lộng, tất cả đều quay về nguồn. Chỉ cần một tiếng hét thôi cũng đủ khiến chúng chảy ngược lại.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18430)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19911)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19585)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33490)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34607)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54601)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37834)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21201)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17951)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63769)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17447)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49763)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16909)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16430)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14522)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22536)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 57091)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13893)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29071)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33377)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38442)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31289)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13946)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14662)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14321)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12685)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14875)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19235)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13859)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12707)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30475)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11878)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30758)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29460)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30673)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31287)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37177)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32326)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23746)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12258)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14254)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14118)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 34033)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27778)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12484)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28706)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29430)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12465)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29289)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 28096)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25737)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26091)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22324)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33208)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31859)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39643)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22508)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34545)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27404)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28442)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant