Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Hai Mươi Hai: Con Rắn Mũi Rùa Của Tuyết Phong

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15413)
Tắc thứ Hai Mươi Hai: Con Rắn Mũi Rùa Của Tuyết Phong

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 3

TẮC THỨ HAI MƯƠI HAI

CON RẮN MŨI RÙA CỦA TUYẾT PHONG

 

THÙY: Lớn không bờ cõi, nhỏ như vi trần, nắm buông không phải là gì khác, cuộn mở đều ở nơi mình. Nếu như muốn cởi bỏ chỗ trói buộc dính dấp, ắt phải cắt đứt hết tông tích (của tâm hành) nuốt hết âm thanh (của ngôn ngữ). Mọi người thấy rõ bờ kia, ai nấy lừng lững ngàn trượng. Thử nói xem đó là cảnh giới của ai? Xin nêu lên xem.

CỬ: Tuyết Phong dạy chúng rằng: Nam sơn có một con rắn mũi rùa, các ông cần phải coi chừng. Trường Khánh nói, “Hôm nay trong đại sảnh có người tang thân thất mạng.” Có ông tăng thuật lại cho Huyền sa, Huyền Sa nói, “Phải là Lăng huynh thì nới nói như thế được tuy nhiên tôi thì lại không như thế.” Ông tăng hỏi, “Hòa thượng thì như thế nào?” Huyền Sa nói, “Cần gì phải Nam Sơn.” Vân Môn thì chỉ ném gậy xuống trước mặt Tuyết Phong làm ra vẻ sợ sệt.[3]

BÌNH: Nếu như các ông muốn trải nó ra thì cứ việc trải nó ra, nếu như các ông muốn đả phá thì cứ việc đã phá[4]. Tuyết Phong cùng đi với Nham Đầu và Khâm Sơn. Sư đến Đầu Tử ba lần lên động Sơn chín lần. Sau đến tham vấn Đức Sơn, lúc ấy mới đập lủng được đáy thùng đen.

Một hôm cùng đi với Nham Đầu đến gặp Khâm Sơn. Đi đến một khách điềm trên Ngao Sơn thì bị kẹt tuyết. Nham Đầu ngày nào cũng chỉ ngủ trong khi Tuyết Phong lúc nào cũng ngồi thiền. Nham Đầu hét, “Ngủ một chút xem, ngày nào ông cũng ngồi thiền trên giường trông như thể một ngôi tượng đất. Sau này thế nào ông cũng làm loạn hoặc con cái thiên hạ.” Tuyết Phong tự chỉ vào ngực nói, “Chỗ này của tôi chưa an, tôi không dám tự lừa dối mình.” Nham Đầu nói, “Tôi cứ cho là ông sau này thế nào cũng lên đỉnh cao xây thảo amtruyền đạo lớn, chẳng dè ông lại vẫn còn ăn nói như thế.” Tuyết Phong nói, “Tôi quả tình chưa an tâm thật.” Nham Đầu nói, “nếu ông như thế thật, thì cứ đem hết từng kiến giải của ông ra, chỗ nào đúng tôi sẽ vì ông mà chứng minh, chỗ nào không đúng tôi sẽ trừ khử đi cho ông.”

Tuyết Phong bèn thuật lại, “Lúc tôi gặp Diêm Quan thượng đường nói về ý nghĩa của sắc và không, tôi có đạt được chút hiểu biết.” Nham Đầu nói, “Ba mươi năm tới đây đừng bao giờ đề cập đến chuyện này nữa.” Tuyết Phong lại nói, “Lúc nghe bài tụng qua sông của Động Sơn tôi cũng đạt được chút hiểu biết.” Nham Đầu nói, “ nếu thế thì ông không còn tự cứu mình được nữa.” Tuyết Phong nói, “Sau này lúc đến gặp Đức Sơn tôi hỏi, “Kẻ học này có phần gì trong việc của tông môn từ xưa đến nay không? Đức Sơn đánh cho một gậy và nói, “ Cái gì?” Lúc ấy tôi giống như thể cái thùng đen bị đập lủng đáy.” Nham Đầu bèn hét và nói rằng, “Ông từng nghe nói rằng cái gì từ bên ngoài vào thì không phải là gia bảo trong nhà chứ?” Tuyết Phong nói, “Vậy thì từ rày về sau tôi phải làm như thế nào mới đúng chứ?” Nham Đầu nói “ Sau này nếu ông muốn truyền bá đạo lớn, thì nhất nhất đều phải từ hung khâm ông trôi chảy ra để che kín cả trời đất cho tôi.” Nghe lời nói ấy Tuyết Phong đại ngộ. Bèn lễ lạy và huyên thuyên kêu lên, “ Hôm nay tôi đắc đạo trên Ngao Sơn, hôm nay tôi đắc đạo trên Ngao Sơn.”

Sau đó trở về Mân sống trên Tượng Cốt Sơn, tự để lại bài tụng rằng, “Đời người bỗng nhiên thật ngắn ngủi, phù thế làm sao nương náu lâu. Xuống núi mới được ba mươi hai, về Mân thoắt đã ngoài bốn mươi. Lỗi người chẳng cần nêu lên mãi, mình sai cần phải trừ hết thôi. Trình các tử y tăng đầy triều, Diêm Vương chẳng sợ màu áo nâu.”

Thường thượng đường dạy chúng rằng, “ Nhất nhất đều bao trùm trời đất.”[5] Sư chẳng nói huyền nói diệu, cũng chẳng nói tâm nói tính. Đột nhiên độc lộ, như khối lửa lớn, đến gần là nó đốt cháy mặt người ta. Giống như Thái A Kiếm đụng vào là tang thân thất mệnh. Nếu như vướng trong tư tưởng, đình các phương tiện, ắt là sẽ lạc hướng.

Bách Trượng hỏi Hoàng Bá, “ Từ đâu đến?” Hoàng Bá nói, “ Từ dưới chân núi Đại Hùng hái nấm mà đến đây.” Bách Trượng hỏi, “ Có thấy cọp không?” Hoàng Bá bèn giả tiếng cọp gầm. Bách Trượng bèn nhặt búa lên làm thế như thể đang chém. Hoàng Bá bèn đánh Bách Trượng một bạt tai. Bách Trượng bèn cười hì hì rồi trở về bước lên giảng tòa nói với đại chúng rằng, “ Trên núi Đại Hùng có một con cọp, các ông phải coi chừng,hôm nay chính lão tăng bị nó cắn một miếng.”

Triệu Châu mỗi khi gặp ông tăng nào đó là hỏi, “Đã từng đến đây chưa?’ Bất chấp ông tăng kia nói đã từng hay chưa từng Triệu Châu đều nói, “Đi uống trà đi.” Viên chủ nói, “ Hòa thượng hay hỏi mấy ông tăng đã từng đến đây chưa rồi lại bảo đi uống trà đi. Dám hỏi ý chỉ như thế nào?’ Triệu Châu nói, “ Viện chủ!” Viện chủ đáp, “ Vâng”. Triệu Chân nói, “Đi uống trà đi.”

Dưới cổng của Tử Hồ có một tấm bảng, trên bảng có viết, “ Tử Hồ có một con chó, trên thì lấy đầu thiên hạ, giữa thì lấy bụng thiên hạ, dưới thì lấy chân thiên hạ. Tần ngần là tang thân thất mạng ngay.” Có ai vừa mới đến vừa trông thấy Sư, Sư đã hét nói, “ Coi chừng chó!” Ông tăng vừa quay đầu nhìn, Sư đã trở về phương trượng.

(Những điều trên) giống y như Tuyết Phong nói, “ Nam Sơn có một con rắn mũi rùa, các ông phải cẩn thận coi chừng.” Đúng vào lúc ấy các ông phải đối đáp như thế nào? Không dẫm vào vết cũ các ông thử nói tôi nghe xem. Đến chỗ này rồi phải hiểu các câu đặc biệt thì mới được. Khi ấy lúc tất cả các công án nêu lên, các ông đã hiểu ngay cốt ý của chúng. Thử nhìn cách dạy chúng của Tuyết Phong, chẳng hề nói gì về chỗ hiểu và chỗ dành cho các ông, các ông có thể lấy ý thức cảm quan ra mà so đo được chăng?

Họ (Trường Khánh, Huyền SaVân Môn) là con cháu trong nhà của Tuyết Phong, cho nên mới ăn nói được một cách khế hợp như thế. Cho nên cổ nhân mới nói, “Nghe lời phải hiểu nguồn, đừng tự lập qui củ.” Lời phải có chỗ ngoại lệ, câu phải có khả năng thấu quan. Nếu như ngôn ngữ của các ông mà không ra khỏi được các hang động (của chấp trước) thì các ông sẽ bị rơi vào một biển chất độc. Tuyết Phong dạy chúng như thế có thể gọi là lời nói vô vị làm nghẹn miệng thiên hạ Trường Khánh và Huyền Sa đều là người trong nhà của Tuyết Phong, cho nên họ mối hiểu khi Tuyết Phong ăn nói như thế.

Còn như Tuyết Phong nói, “ Nam Sơn có con rắn mũi rùa,” các ông có hiểu ý nghĩa của câu nói ấy không? Đến chỗ này rồi các ông phải có đôi mắt thông suốt khắp các phương mới được. Há không nghe Chân tĩnh có bài tụng rằng, “Đánh trống khảy tỳ bà, tương phùng hai chuyên gia. Vân Môn biết xướng họa, Trường Khánh lại khơi ra. Cổ khúc không âm vận, Nam Sơn rắn mũi rùa. Ai hiểu ra ý này, đích thị có Huyền Sa.”

Khi Trường Khánh đối đáp như thế, thử nói xem ý của thầy ta như thế nào? Đến mức độ này thì phải như đá lửa điện chớp mới có thể nắm được (vấn đề). Nếu như còn có chút tơ hào (chấp trước) nào chưa trừ khử được, các ông vẫn chưa thể nào nắm được. Chí đáng tiếc là nhiều người thường đưa ra kiến giải thiên lệch về lời nói của Trường Khánh, bảo rằng, “ trong sảnh đường vừa nghe thấy cái gì lập tức tang thân mạng.” Có người nói, “ Vốn không hề có gì cả, dù chỉ trên mặt trống mà nói lời này cũng khiến cho thiên hạ sinh nghi. Thiên hạ nghe thầy ta nói,” Nam sơn có con rắn mũi rùa. lập tức sinh nghi.” Nếu như hiểu như thế thì đâu có nhằm nhò gì. Chỉ loay hoay mãi với ngôn ngữ kia mà thôi. Song nếu không hiểu như thế thì phải như thế nào?

Sau đó có ông tăng thuật lại cho Huyền Sa, Huyền Sa nói, “ Phải là Lăng huynh thì mới (nói) như thế được, Tuy nhiên tôi lại chẳng như thế.” Ông tăng hỏi, “ Hòa thượng thì như thế nào?” Huyền Sa nói, “Cần gì phải Nam Sơn.” Nhìn xem trong lời nói của Huyền Sa đã có chỗ xuất thân. Cho nên thầy ta mới nói, “ Cần gì phải Nam Sơn?” Nếu như không phải là Huyền Sa hẳn là hết sức khó mà đối đáp. Lúc Tuyết Phong nói, “ Nam Sơn có con rắn mũi rùa.” Thử nói xem, ở chỗ nào? Đến chỗ này rồi phải là người hướng thượng mới có thể hiểu được lối nói chuyện ấy. Cổ nhân nói, “ Câu cá trên thuyền, Tạ Tam Lang không thích Nam Sơn, mà con rắn mũi rùa lại đến.”

Vân Môn ném gậy xuống trước mặt Tuyết Phong làm ra vẻ sợ hãi. Vân Môn có khả năng bắt rắn, cũng như không phạm phải mũi nhọn, sáng cũng được mà tối cũng được.Thầy ta bình thường vì người khác như thể múa Thái A Kiếm, có lúc vút qua mày mắt người ta, có lúc bay ra ngoài ba ngàn dặm mà lấy đầu người ta. Vân Môn ném gậy xuống làm ra vẻ sợ hãi, phải chăng làm trò ma quỉ? Phải chăng thầy ta cũng tan thân mất mạng. Các bậc tông sư thành thạo không bao giờ vướng mắc mãi với một lời hay một câu cà. Tuyết Đậu chỉ vì thích cái khế hợp của Vân Môn với ý chỉ của Tuyết Phong cho nên mới tụng rằng:

TỤNG

Tượng cốt vách cao người không đến,

Kẻ đến phải là tay bắt rắn.

Thầy Lăng thầy Bị làm gì được?

Tang thân thất mạng đã bao người.

Thiều Dương[6] biết,

Lại vạch cỏ,

Nam Bắc Đông Tây biết chỗ nào.

Hốt nhiên lại tung chiếc gậy ra,

Ném trưóc Tuyết Phong há hốc miệng.

Miệng há hốc hề giống điện chớp,

Nhíu đôi lông mày còn không thấy.

Giờ đây ẩn trên đỉnh Nhũ Phong,

Kẻ đến từng người thấy phương tiện.

Sư lớn tiếng quát rằng, “nhìn dưới chân!”

BÌNH: “Tượng cốt vách cao người không đến, kẻ đến là tay bắt rắn.” Trên Tuyết Phong Sơn có vách Tượng Cốt. Tuyết Phongcơ phong cao lừng lững, hiếm có người đạt đến được. Tuyết Đậu là người trong nhà (của Tuyết Phong) cùng lông cùng giống. Đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu, cần các tay thanh thạo chứng minh cho nhau.

Tuy nhiên con rắn mũi rùa này vẫn rất là khó bắt.Phải biết cách bắt mới được, nếu không thể nào cũng bị rắn cắn. Ngũ Tổ nói, “Đối với con rắn Mũi rùa này cần phải có cái khả năng đừng để cho tay chân bị cắn mới được. Nhằm ngay gáy nó mà nắm một cái, thì các ông mới có thể nắm tay cùng đi với lão tăng được.

Trường Khánh và Huyền Sa có khả năng này. Tuyết Đậu nói rằng Thầy Lăng thầy Bị làm gì được, đa số thiên hạ bảo rằng Trường Khánh và Huyền Sa không làm gì được, cho nên Tuyết Đậu mói ca ngợi Vân Môn. May mà chẳng có gì là đúng cả. Họ đâu có biết rằng trong ba người này căn cơ không có chỗ đắc nhất, chỉ có chỗ thân sơ mà thôi, tôi chỉ xin hỏi chư vị, chỗ nào là chỗ mà thầy Lăng và thầy Bị không làm gì được?

“Tang thân mất mạng bao nhiêu người.” Đây là tụng câu nói của Trường Khánh rằng, “Hôm nay trong sảnh đường có người tang thân thất mạng.” Đến chỗ này phải có tài bắt rắn tuyệt hảo mới được. Tuyết Đậu xuất phát từ dòng của Vân Môn, chonên mới gạt phăng tất cả chỉ giữ lại một mình Vân Môn. Tuyết Đậu nói, “ Thiều Dương biết, lại vạch cỏ.” Bởi vì Vân Môn biết cốt ý của lời nói của Tuyết Phong rằng, “Nam Sơn có con rắn mũi rùa” cho nên mới “ lại vạch cỏ” nữa.

Tuyết Đậu tụng tới đây càng có chỗ vi diệu hơn nữa, cho nên nói, “ Nam bắc đông tây biết chỗ nào.” Thử nói xem ở chỗ nào?” Hốt nhiên lại tung chiếc gậy ra.” Nguyên lai chỉ ở nơi đây. Song các ông không thể cứ vướng nơi chiếc gậy mãi. Vân Môn ném gậy xuống trước mặt Tuyết Phong rồi làm ra vẻ sợ hãi. Vân Môn dùng gậy làm con rắn mũi rùa. Có lần Vân Môn nói, “ gậy hóa thành rồng, nuốt trọn cả càn khôn. Sơn hà đại địa biết tìm đâu ra lại đây?” Chỉ là một chiếc gậy mà có lúc làm rồng có lúc làm rắn. Tại sao lại như thế? Đến chỗ này rồi nới có thể hiểu được lời nói của cổ nhân rằng “ Tâm tùy vạn cảnh chuyễn, nhuyễn xứ lại thâm sâu.”

Tụng rằng, “ Ném trước Tuyết Phong há hốc miệng, Miệng há hốc hề giống điện chớp.” Tuyết Đậu có thừa tài, dơ con rắn độc của Vân Môn lên mà nói rằng “ miệng há hốc hề giống điện chớp.” Nếu như các ông toan nghị luận là lập tức tang thân thất mạng. “ Nhíu đôi lông mày không còn thấy.” Nó đi về đâu rồi?

Tuyết Đậu tụng xong phải đến chỗ sống mà giúp người. Nhặt con rắn của Tuyết Phong mà tự dơ lên tự chơi giỡn, tha hồtùy cơ sát hoạt. Các ông muốn thấy không? Tuyết Đậu nói, “ Giờ đây ẩn trên đỉnh Nhũ Phong.” Nhũ Phong chính là tên của núi Tuyết Đậu. Tuyết Đậu có bài tụng rằng, “ Cửa đá nhìn quanh trời đất hẹp, hư không nào để mây trắng đâu.” Tuy rằng Trường Khánh, Huyền SaVân Môn có thể bắt được rắn, song họ chẳng thấy rắn. Tuyết Đậu nói, “ hiện giờ ẩn trên đỉnh Như Phong, kẻ đến từng người thấy phương tiện.” Tuyết Đậu lại tiến thêm vào chỗ uyên áo của thầy, không nói “ dùng đi” mà lại lớn tiếng hét lên rằng, “ Nhìn dưới chân!” Từ xưa đến nay có bao nhiêu người chơi dỡn được với rắn? Thử nói xem rắn đã từng cắn ai chưa? Sư (Viên Ngộ) bèn đánh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18430)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19911)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19585)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33489)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34607)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54601)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37834)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21201)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17951)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63769)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17447)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49762)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16909)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16430)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14522)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22536)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 57091)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13893)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29071)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33377)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38442)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31288)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13946)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14662)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14321)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12685)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14875)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19235)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13859)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12707)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30475)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11878)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30757)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29460)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30672)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31287)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37177)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32326)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23746)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12258)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14254)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14118)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 34032)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27778)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12483)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28705)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29430)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12465)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29289)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 28096)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25737)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26091)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22324)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33208)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31859)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39642)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22508)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34544)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27404)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28441)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant