Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Hai Mươi Mốt: Hoa Sen Của Trí Môn

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15593)
Tắc thứ Hai Mươi Mốt: Hoa Sen Của Trí Môn

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 3

TẮC THỨ HAI MƯƠI MỐT

HOA SEN CỦA TRÍ MÔN

 

THÙY: Kiến pháp tràng, lập tông chỉ, trên gấm bầy hoa. Tháo cương gỡ yên, thái bình thời tiết. Nếu như phân biện được câu đặc biệt, thì nêu lên một là hiểu ba. Nếu như chưa được như vậy, thì hãy tiếp tục lắng nghe phân xử.

CỬ: Có ông tăng hỏi Trí Môn, “ Lúc hoa sen chưa ngoi lên khỏi mặt nước thì như thế nào?” Trí Môn nói, “Hoa sen”. Ông tăng lại hỏi, “Sau khi ngoi lên khỏi mặt nước rồi thì như thế nào?” Trí Môn nói, “Lá sen.”

BÌNH: Luận về việc ứng cơ tiếp vật, Trí Môn kể như cũng tới mức độ nào đó. Còn nếu luận về việc cắt đứt các dòng (kiến chấp) thì Trí Môn vượt xa hơn người khác đến ngàn dặm vạn dặm. song thử nói xem đóa hoa sen đã và chưa ngoi lên khỏi mặt nước này là một hay là hai? Nếu như thấy được như vậy là đã có được chỗ vào. Tuy thế song nếu bảo là một lập tức lầm lạc Phật tính mê mờ Chân như. Nếu bảo là hai, tâm cảnh đều chưa quên được, lạc vào con đường kiến giải (thiên chấp), biết bao giờ mới dứt?

Thử nói xem, ý của cổ nhân như thế nào? Kỳ thực chẳng có gì là rắc rối. cho nên Đầu Tử nói, “Chỉ đừng vương vào ngôn ngữ văn tự. Nếu như mình hiểu được mọi vật, tự nhiên là mình không bị chấp trước, tất nhiên là không có các sai biệt thứ vị. Mình nhiếp được tất cả các pháp, mà tất cả các pháp không nhiếp được mình. Vốn đâu có được mất, huyền ảo, với lắm thứ danh mục như thế. Không thể cưỡng lập danh tự cho các pháp. Như thế thì làm sao mà các ông có thể bị lừa dối được? Các ông hỏi, cho nên đã có ngôn ngữ. Nếu như các ông không hỏi, tôi biết phải nói gì với các ông mời được đây? Tất cả mọi chuyện đều là do các ông gây ra, đều chẳng có gì can hệ đến tôi cả.” Cổ nhân nói, “ Muốn hiểu Phật tính thì phải quán thời tiết nhân duyên.”

Há không nghe Vân Môn thuật câu chuyện: có ông tăng hỏi Linh Vân, “Lúc Phật chưa xuất thế thì như thế nào?” Linh Vânphất trần lên. Ông tăng hỏi, “Thế sau khi (Phật) xuất thế rồi thì như thế nào?” Linh Vân lại dơ phất trần lên. Vân Môn nói, “ Lần đầu thì đánh được, lần sau đánh không được.” Lại nói, “Đừng nói tới chuyện xuất thế với không xuất thế, ở đâu có cái lúc mà ông ta hỏi?”

Cổ nhân một hỏi một đáp, hợp thời hợp lúc, chẳng hề nhiều chuyện. Nếu như các ông cứ lo tìm lời đuổi câu thì chẳng bao giờ nhằm nhò đến vấn đề cả. Nếu như các ông có thể nhìn thấu được ngôn ngữ trong ngôn ngữ, hiểu thấu được ý trong ý, nhìn thấu được cơ duyên trong cơ duyên, buông bỏ tự tại, lúc ấy mới thấy được câu trả lời của Trí Môn.

Hỏi, “ Lúc Phật chưa xuất thế thì như thế nào?” Lúc Ngưu Đầu chưa gặp Tứ Tổ thì như thế nào? Lúc hỗn độn chưa phân trong bàn thạch thì như thế nào? Lúc cha mẹ chưa sinh thì như thế nào?[1] Vân Môn nói, “Từ xưa đến nay chỉ là một sự việc. Không có đúng không có sai, không có được cũng không có mất, không có sinh không có chưa sinh.” Đến đây cổ nhân đặt ra một con đường có chỗ vào có chỗ ra. Nếu là người chưa hiểu, thì cững giống nhhư dựa hàng rào mò vách tường, nép bên cỏ nương vào cây. nếu bảo hắn buông bỏ, hắn lại lạc vào hoang vu lãng đãng. Nếu như người đã hiểu được thì suốt mười hai giờ trong một ngày chẳng cần phải dựa vào vật gì cả. Tuy không dựa vào một vật gì, nếu nhu để lộ một cơ một cảnh, biết làm sao mà rờ rẫm đây?

Ông tăng kia hỏi, “Lúc hoa sen chưa ngoi khỏi mặt nước thì như thế nào?” Trí Môn nói, “Hoa sen”. Đó chỉ là một câu đáp chặn câu hỏi, song đặc sắc hết sức. Các nơi đều gọi đó là “điên đảo ngữ”. Tại sao lại thế? Há không nghe Nham Đầu nói, “ Thường thì những lúc trước khi các ông mở miệng mà lại còn hay hơn.” Chỗ cổ nhân để lộ tâm cơ ra, cũng là lậu đậu lắm rồi. Người học đời nay không hiểu ý của cổ nhân, chỉ mãi lo lý luận “ ngoi lên khỏi mặt nước” với lại “ chưa ngoi lên khỏi mặt nước,” song có gì là nhằm nhò đâu.

Há không nghe chuyện có ông tăng hỏi Trí môn, “ Thế nào là bát nhã thể?” Trí Môn nói, “ Sò ngậm trăng sáng.” Ông tăng hỏi, “Thế nào là bát nhã dụng?” Trí Môn nói, “Con thỏ mang thai.” Nhìn xem thầy ta đối đáp như thế, người trong thiên hạ chẳng ai truy ra được ngữ mạch của thầy ta cả.

Có ông tăng hỏi Giáp Sơn, “Lúc hoa sen chưa ngoi khỏi mặt nước thì như thế nào?” Giáp Sơn chỉ nói, “Cột nhà đèn giấy.” Thử nói xem là giống hay khác với hoa sen? Ông tăng hỏi, “ Sau khi ngoi lên khỏi mặt nước rồi thì như thế nào?” Giáp Sơn nói, “Đầu trượng khua nhật nguyệt, dưới chân bùn quá sâu.” Các ông thử nói xem đúng hay sai? Song đừng có nhận lầm là điểm giữa cán cân. Tuyết Đậu từ bi cùng tột, phá vỡ hết kiến chấp của người ta cho nên mới tụng như sau:

TỤNG

Hoa sen lá sen cho ngài biết

Ngoi lên sao bằng lúc chưa ngoi?

Giang Bắc Giang Nam hỏi Vương lão[2]

Một hồ nghi rồi một hồ nghi.

BÌNH: Trí Môn vốn là người Chiết Giang, phấn khởi đến Tứ Xuyên để gặp Hương Lâm. Sau khi thấu triệt (Thiền) rồi mới về ở Trí Môn, Tùy Châu. Tuyết Đậu thuộc dòng của Trí Môn, thấy được chỗ tận cùng trong cái huyền diệu của Trí Môn cho nên mới nói thẳng, “Hoa sen lá sen cho ngài biết, ngoi lên sao bằng lúc chưa ngoi?” Muốn cho người khác hiểu trực tiếp.

Sư núi tôi nói, “Lúc chưa ngoi lên khỏi mặt nước thì như thế nào? Cột nhà đèn giấy. Sau khi đã ngoi lên khỏi mặt nước rồi thì như thế nào? Đầu trượng khua nhật nguyệt, dưới chân bùn quá sâu.” Song các ông đừng nhận lầm đó là điểm giữa cán cân. Ngày này thiên hạ lo nhai cắn ngôn ngữ không biết tới bao giờ.

Thử nói xem lúc (hoa sen) ngoi lên khỏi mặt nước rồi thì là thời tiết gì vậy? Lúc chưa ngoi lên khỏi mặt nước thì là thời tiết gì vậy? Nếu như các ông có thể thấy được điểm này, tôi để cho các ông gặp thẳng Trí Môn đấy.

Tuyết Đậu nói nếu như các ông không thấy thì “Giang Bắc Giang Nam hỏi Vương lão.” Tuyết Đậu ý muốn nói là các ông phải đi quanh Giang Bắc Giang Nam để hỏi các vị tôn túc về “ngoi lên khỏi mặt nước rồi” và “chưa ngoi lên khỏi mặt nước.” Giang Nam thêm vào hai câu, Giang Bắc thêm vào hai câu, một gánh thêm một gánh, triển chuyển sinh nghi. Thử nói xem, khi nào các ông mới hết nghi được? Các ông đã nghi như thể chồn hoang, đi trên băng mỏng; lắng nghe tiếng nước (ở dưới). Nếu như không có tiếng gì thì mới qua sông được. Nếu như các người học Thiền mà cứ sinh hết mối nghi này đến mối nghi khác, bao giờ mới được yên ổn đây?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18430)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19905)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19584)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33489)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34606)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54596)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37833)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21201)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17950)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63767)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17443)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49759)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16909)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16425)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14521)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22536)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 57086)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13892)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29069)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33376)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38442)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31286)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13945)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14657)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14321)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12685)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14875)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19235)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13856)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12706)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30474)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11877)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30753)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29456)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30670)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31283)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37174)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32324)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23744)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12257)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14254)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14118)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 34028)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27777)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12480)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28701)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29426)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12463)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29287)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 28091)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25732)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26089)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22321)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33207)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31853)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39638)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22506)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34541)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27404)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28441)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant