Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Năm Mươi Sáu: Một Mũi Tên Phá Ba Ải Của Vân Môn

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15324)
Tắc thứ Năm Mươi Sáu: Một Mũi Tên Phá Ba Ải Của Vân Môn

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 6

TẮC THỨ NĂM MƯƠI SÁU

MỘT MŨI TÊN PHÁ BA ẢI CỦA KHÂM SƠN

 

THÙY: Chư Phật chưa từng xuất thế, cũng chẳng có Pháp trao người. Tổ Sư chưa từ Tây[6] đến, chẳng từng lấy tâm truyền thụ. Chỉ vì người đời không hiểu, cho nên mới tìm kiếm ở bên ngoài. Đâu có hay rằng một việc đại sự nhân duyên dưới chân mình, ngày bậc thánh cũng chẳng rờ rẫm ra được. Như giờ đây thấy với không thấy, nghe với không nghe, nói với không nói, biết với không biết, từ ở đâu đến vậy kìa? Nếu như các ông chưa hiểu thấu được, thì xin cố tìm hiểu trong dòng dâu dưa. Thử nêu lên xem.

CỬ: Lãng Thiền Khách hỏi Khâm Sơn, “Lúc một mũi tên phá ba ải thì như thế nào?” Khâm Sơn nói, “đem vị chỉ huy trong ải ra đây xem!”Lãng Thiền Khách nói, “Như vậy có nghĩa là biết lỗi lầm phải sửa đổi.” Khâm Sơn nói, “Vậy thì còn đợi đến bao giờ nữa?” Lãng Thiền Khách nói, “Mũi tên bắn hay chẳng đúng đâu cả.” Rồi bỏ đi ra. Khâm Sơn nói, ”Thầy đến đây một chút coi.” Lãng Thiền Khách quay đầu lại, Khâm Sơn nắm lấy thầy ta nói, “Một mũi tên phá ba ải, tạm gác qua một bên. Ông thử bắn một mũi tên ra cho Khâm Sơn xem coi!” Lãng Thiền Khách định cãi, Khâm Sơn đã đánh cho bảy gậy rồi nói, “Ta sẵn sang nghe gã này nghi ngờ trong ba mươi năm nữa.”

BÌNH: Lãng Thiền Khách quả thật là một tay chiến tướng. Xoay trở trái phải trong tay Khâm Sơn, tránh rồi né vọt. Cuối cùng, đáng tiếc thay, cũng gẫy tên hết. Tuy thế đi nữa, “Lý tướng quân tuy có tiếng thơm song lại chẳng được phong hầu, cũng vô ích mà thôi.” Công án này có một lối ra một lối vào, một nắm giữ một buông tha. “đối cơ giáp mặt mà nêu lên, đối cơ giáp mặt thật nhanh.” Đều chẳng bị rơi vào hữu vô đắc thất. Đây gọi là “huyền cơ.” Nếu như thiếu chút sức mạnh thế nào cũng bị vấp ngã.

Ông tăng này cũng là một tay nạp tử[7] thông minh, câu hỏi đặt ra quả thật khiến thiên hạ kinh hồn. Khâm Sơn là tay chuyên gia trong tông môn của chúng ta, cho nên biết ngay cốt yếu câu hỏi của ông ta. “Khi một mũi tên phá ba ải thì như thế nào?” Câu trả lời của Khâm Sơn ngụ ý, “Việc ông bắn thấu, hãy tạm gác qua một bên. Đem vị chỉ huy trong ải ra đây coi.” Lãng Thiền Khách nói, “Như vậy có nghĩa là biết lỗi lầm phải sửa điổ.” Quả thật là kỳ đặc. Khâm Sơn nói, “Vậy thì còn đợi đến bao giờ nữa?” Nhìn xem cách thầy ta trả lời. Câu hỏi của Khâm Sơn lại chẳng có chỗ sơ hở nào cả.

Cuối cùng Lãng Thiền Khách lại nói, “Mũi tên bắn hay chẳng trúng đâu cả, rồi rũ tay áo toan bỏ đi. Khâm Sơn lập tức gọi theo, “Thầy đến đây một chút coi!” Lãng Thiền Khách quả nhiên chưa nắm vững được, bèn quay đầu lại. Khâm Sơn nắm lấy thầy ta nói, “Một mũi tên phá ba ải, tạm gác qua một bên. Ông thử bắn ra một mũi tên cho Khâm Sơn xem coi!” Lãng Thiền Khách vừa toan lý luận, Khâm Sơn đã đánh cho bảy gậy. Tiếp theo đó lại mắng rằng, “Ta sẵn sàng nghe gã này nghi ngờ trong ba mươi năm nữa.”

Người học Thiền ngày nay đều hỏi, “Tại sao không đánh Lãng Thiền Khách tám gậy hay sáu gậy mà lại dùng bảy gậy thôi? Hoặc sao không đánh ngay sau khi hỏi thầy ta sao không thử bắn tên ra?” Nói như thế tuy có vẻ đúng song thật ra lại chẳng đúng. Muốn hiểu công án này thì phải không được giữ trong lòng bất cứ sự suy tình so đó nào, phải vượt ra ngoài ngôn ngữ. Lúc đó các ông mới có thể một câu mà phá được ba ải và có chỗ để mà bắn tên. Nếu như vẫn còn muôi lòng thị phi, chẳng bao giờ rờ rẫm ra được.

Lúc ấy nếu như ông tăng kia là một tay cừ thật thì hẳn Khâm Sơn cũng lâm nguy rồi.Bởi vì Lãng Thiền Khách không hành lệnh được, không khỏi bị bệnh hành. Song thử nói xem, vị chỉ huy trong ải rốt cuộc là ai? Tuyết Đậu tụng rằng:

TỤNG

Đem vị giữ ải ra cho ông,

Những kẻ bắn tên đừng sơ hốt.

Lấy một mắt hề tai tất điếc,

Buông một tai hề đôi mắt mù.

Thương thay một tên phá ba ải,

rõ ràng ràng lối tên đi.

Há không nghe,

Huyền Sa có lời hề,

“Đại trượng phu tiên thiên làm tâm tổ.”

BÌNH: Mấy câu trong bài tụng này là rút từ một bài tụng của Qui Tông . Qui Tông ngày xưa vì làm bài tụng ấy mà có tên là Qui Tông. Trong tông môn của chúng ta, đây gọi là “nơi tông chỉ”. Sau này Đồng An nghe nói tới công án này, nói rằng, “Ông Lãng quả thật là khéo bắn tên,song không biết cách bắn cho trúng đích.” Có ông tăng hỏi, “ Như thế nào thì mới trúng đích được?” Đồng An nói, “ Vị chỉ huy ải là ai?” Sau này có ông tăng thuật lại cho Khâm Sơn, Khâm Sơn nói, “Ông Lãng dù là như thế cũng chưa tránh được miệng của Khâm Sơn. Tuy vậy, Đồng An cũng chẳng có ý tốt.”

Tuyết Đậu nói, “Đem vị giữ ải ra cho ông.” Mở mắt cũng thấy mà nhắm mắt cũng thấy. Hữu hình hay vô hình, cũng đều bị chặt ra thành ba khúc, “ Những kẻ bắn tên đừng sơ hốt.” Nếu khéo biết bắn tên thì không sơ hốt, nếu không biết khéo bắn tên thì thế nào cũng sơ hốt. Nên biết rằng,” Lấy một mắt hề tai tất điếc, buông một tai hề đôi mắt mù.” Thử nói xem, lấy một mắt thì tại sao tai lại điếc? Buông một tai tại sao đôi mắt lại mù? Phải không có cái tâm thủ xả thì mới hiểu thấu những lời này được. Nếu như có tâm thủ xả, ắt khó thấy vô cùng.

“Thương thay một tên phá ba ải, rõ rõ ràng ràng lối tên đi.” Lãng Thiền Khách hỏi, “Lúc một mũi tên phá ba ải thì như thế nào?” Khâm Sơn nói,” Đem vị chỉ huy trong ải ra đây xem.” Những lời này mãi cho đến cuối công án của Đồng An chỉ là “đường tên bay” mà thôi. Rốt cuộc là gì? “Há không nghe, Huyền Sa có lời hề, “Đại trượng phu tiên hiên làm tâm tổ.’” Người ta thường coi tâm là tông của các tổ sư;Tại sao ở đây bậc chuyên gia lại là tân tổ ngay cả trước khi trời đất sinh ra? Nếu hiểu thấu được thời tiết này thì mới biết được vị chỉ huy trong ải.

“Rõ rõ ràng ràng đường tên bay.” Nếu như các ông muốn bắn trúng đích, thì rõ ràng có đường sau mũi tên. Song thử nói xem, thế nào là đường sau mũi tên? Cần phải có sức dùi mài mới được. “Đại trượng phu tiên thiên làm tâm tổ.” Huyền Sa thường dạy chúng bằng lời này. Đây là một câu tụng của Qui Tông, Tuyết Đậu lầm mà bảo là lời của Huyền Sa. Những người học Thiền bây giờ nếu lấy tâm này làm tổ tông, thì có tham Thiền cho đến lúc Phật Di Lặc hạ sinh cũng chưa hiểu được. Nếu như là bậc đại trượng phu, thì tâm vẫn cứ còn là con cháu. Thiên địa chưa phân, đã là phụ thứ rồi. Thử nói xem, đang lúc ấy thì thế nào là trước trời đất?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18430)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19906)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19584)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33489)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34606)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54596)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37833)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21201)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17950)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63767)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17444)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49761)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16909)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16426)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14521)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22536)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 57087)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13892)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29069)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33377)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38442)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31288)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13945)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14657)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14321)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12685)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14875)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19235)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13857)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12706)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30474)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11877)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30753)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29457)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30671)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31284)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37175)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32324)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23744)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12257)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14254)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14118)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 34031)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27778)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12482)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28701)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29426)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12464)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29288)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 28091)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25734)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26090)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22323)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33207)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31855)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39639)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22507)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34541)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27404)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28441)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant