Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Sáu Mươi Lăm: Ngoại Đạo Hỏi Phật Về Hữu Vô

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 16040)
Tắc thứ Sáu Mươi Lăm: Ngoại Đạo Hỏi Phật Về Hữu Vô

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 7

TẮC THỨ SÁU MƯƠI LĂM

NGOẠI ĐẠO HỎI PHẬT VỀ HỮU VÔ

 

THÙY: Hình mà vô tướng, tràn đầy mười phương, dàn trải khắp nơi, vô tâm mà ứng, phổ biến cả đất lẫn biển mà không phiền phức; nêu một hiểu ba, thoáng nhìn mà phân biện cân lượng. Dù cho gậy rơi như mưa, hét vang tựa sấm, vẫn chưa đáng được kể là noi theo được bước chân của bậc hướng thượng. Song thử nói xem, thế nào là việc của kẻ hướng thượng? Thử nêu lên xem.

CỬ: Một ngoại đạo hỏi Phật, “Không hỏi hữu ngôn, không hỏi vô ngôn.” Đức Thế Tôn im lặng. Ngoại đạo tán than rằng, “Thế Tôn đại từ đại bi, khia mở mây mờ cho tôi, khiến tôi có được chỗ vào (đạo).” Sau khi ngoại đạo đi rồi, A Nan hỏi Phật, “Ngoại đạo chứng được gì mà nói có chỗ vào vậy?” Đức Phật nói, “Giống như ngựa tốt, chỉ cần thấy bóng roi cũng chạy rồi.”

BÌNH: Việc này nếu thuộc nơi ngôn ngữ, thì tam tạng mười hai phần giáo há là vô ngôn sao? Có người bảo vô ngôn là đúng. Vậy thì Tổ Sư phải mất công từ Tây Trúc qua để làm gì/ Còn như bao nhiêu công án từ xưa đến nay, rốt cuộc phải hiểu như thế nào? Công án này bị rất nhiều người dựa trên ngôn ngữ mà hiểu. Có người gọi là im lặng, có người gọi là ngồi im, có người gọi là mặc nhiên không đáp. May ma chẳng có gì là nhằm nhò cả. Có mấy ai từng rờ rẫm ra được công án này? Việc này kỳ thực không ở trong ngôn ngữ song cũng chẳng ngoài ngôn ngữ. Nếu như các ông chỉ hơi toan bàn cãi là các ông đã ngàn dặm vạn dặm cách xa rồi. Nhìn xem ngoại đạo kia sau khi tỉnh ngộ rồi, mới biết rằng sự việc không ở đây mà cũng chẳng ở kia, không ở phải mà cũng chẳng ở không phải. Thử nói xem là gì vậy?

Thiên Ý Hoài Hòa Thượng tụng rằng, “Duy Ma chẳng bao giờ im lặng, cứ ngồi bàn cãi thành lỗi lầm. Kiếm sắc trong hợp ánh sáng lạnh, ngoại đạo thiênma đều khoanh tay.” Lúc Bách Trượng Thường hòa thượng tham học với Pháp Nhãn, Pháp Nhãn dạy tham câu nói này. Một hôm Pháp Nhãn hỏi, “Ông quan sát nhân duyên gì vậy?” Thường Hòa Thượng nói, “Ngoại đạo hỏi Phật.” Pháp Nhãn nói, “Ông thử nêu lên cho tôi xem thử xem.” Thường hòa thượng vừa định mở miệng Pháp Nhãn đã nói, “Ngưng, ngưng. Ông toan dựa vào chỗ im lặng mà hiểu chứ gì?” Nghe lời ấy, Thường hòa thượng hốt nhiên đại ngộ. Sau đó dạy chúng rằng, “Bách Trượng có ba yếu quyết: uống trà, tự biết và nghĩ. Nếu như các ông vẫn còn toan lý luận hay tư lương, thì các ông vẫn còn chưa thấu triệt.”

Thúy Nham Chân nêu công án này lên, nói rằng, “Lục hợp cửu hữu, xanh vàng trắng đỏ.”

Ngoại đạo hiểu được bốn bộ kinh Vệ Đà[12]. tự cho mình là người toán tri, đi đâu cũng lôi cuốn thiên hạ vào việc nghị luận. Ngoại đạo đặt câuhỏi, toan làm líu lưỡi đức Phật. Đức Thế Tôn chẳng phí chút tơ hào khí lực nào, ngoại đạo lại tự tỉnh ngộ, tán than rằng, “Thế Tôn đại từ đại bi, khai mở mây mờ cho tôi, khiến tôi có được chỗ vào (đạo).” Thử nói xem, đâu là chỗ đại từ đại bi của Đức Phật? Một con mắt của Thế Tôn thấu suốt ba cõi, hai con ngươi của ngoại đạo quán năm tầng trời.

Qui Sơn Chân Như nêu lên rằng, “Ngoại đạo giấu ngọc trong lòng, Thế Tôn tự đề lên cho. Sâm la hiển hiện, vạn tượng rõ ràng.”

Rốt cuộc ngoại đạo ngộ được cái gì? Giống như thể dồn con chó vào chân tường: đến chỗ cùng rồi thì nó phải quay lại mà nhảy cẫng lên. Nếu như các ông buông bỏ so đo với thị phi một lúc, tinh tấn kiên trì, tự nhiên triệt để.

Sau khi ngoại đoạo đi rồi, A Nan hỏi Phật, “Ngoại đạo chứng được gì mà nói có chỗ vào vậy?” Đức Phật nói, “Giống như con ngựa tốt, chỉ cần thấy bóng roi cũng chạy rồi.” Sau này mọi nơi đều nói rằng công án bị gió thổi thành một điều khác.Lại cũng nói rằng giống như đầu rồng đuôi rắn. Đâu là bóng roi của đức Thế Tôn? Đâu là chỗ thấy bóng roi? Tuyết Đậu nói, “Tà chính không phân, lời từ bóng roi. Chân Như nói, “chuông vàng của A Nan reo hai lần, tứ chúng đều nghe thấy. Tuy là thế, song giống như hai con rồng tranh viên ngọc. Làm trưởng thành con rồng của bậc trí giả kia.” Tuyết Đậu tụng rằng:

TỤNG

Cơ luân chưa từng chuyển,

Chuyển ắt chạy hai phía.

Gương sáng bỗng lên đài,

Lập tức phân xấu đẹp.

Xấu đẹp phân hề may đen mở,

Cửa từ ở đâu sinh trần ai?

Nghĩ ngựa tốt thấy bóng roi,

Thiên lý truy phong gọi về được.

Gọi về được, bung tay ba lần.

BÌNH: “Cơ luân chưa từng chuyển, chuyển ắt chạy hai phía.” “Cơ” là linh cơ của ngàn bậc thánh, “ luân” là mệnh mạch từ xưa đến nay của các ông. Há không nghe cổ nhân nói, “ Linh cơ ngàn thánh không để gần, rồng sinh rồng con chớ tò mò. Triệu Châu đoạt được ngọc vô giá, Tần Chúa Tương Như đều táng thân.” Ngoại đạo nắm vững được chủ trì được, chưa từng bao giờ động cả. Tại sao vậy? Ngoại đạo nói, “ Không hỏi hữu ngôn, không hỏi vô ngôn.” Đó há không phải là chỗ toàn cơ sao?

Đức Thế Tôn biết ngắm gió để dương buồm, tùy bệnh cho thuốc, cho nên mới im lặng. Toàn cơ đề lên, ngoại đạo thể hội hoàn toàn. Cơ luân xoay chuyển một cách trơn tru, không xoay về phía hữu mà cũng chẳng xoay về phía vô. Không rơi vào đắc thất, không vướng vào phàm thánh, hai biên chấp bị cắt đứt cùng một lúc. Thế Tôn vừa im lặng, ngoại đạo đã lễ lậy. Người bây giờ phần nhiều nếu không rơi vào vô thì cũng rơi vào hữu; chỉ lăng xăng trong hai thiên chấp hữu vô này mà thôi.

Tuyết Đậu nói, “Gương sáng bỗng lên đài, xấu đẹp lập tức phân.” Cái này chưa từng bao giờ động, chỉ lặng yên như gương sáng trên đài, vạn tượng không tránh được phản ánh trên ấy. Ngoại đạo nói, “Thế Tôn đại từ đại bi khai mở mây mờ cho tôi, khiến tôi có được chỗ vào (đạo).” Thử nói xem chỗ nào là chỗ vào của ngoại đạo? Đến chỗ này rồi các ông cần phải mời người tự tham tự cứu, tự ngộ tự tri mới được. Lúc ấy mới ở khắp mọi nơi dù là đi đứng hay nằm ngồi không hỏi cao thấp lúc nào cũng hiện thành, chẳng di dịch chút tơ hào. Vừa toan so đo lý luận ắt bị bế tắc đến chết người, và không còn chỗ vào nữa.

Phần cuối tụng ”Thế Tôn đại từ đại bi khai mở mây mờ cho tôi, khiến tôi có được chỗ vào.” Thầy ta lập tức phân xấu đẹp. “Xấu đẹp phân hề mây đen mở, cửa từ ở đâu sinh trần ai?” Cả trời đất này là cửa nẻo đại từ đại bi của đức Thế Tôn. Nếu như các ông thấu được chẳng còn đáng để nắm giữ. Đây cũng là cửa nẻo để ngộ. Há không biết rằng đức Thế Tôn tư duy việc này trong hai mươi mốt ngày. “Ta không nên thuyết Pháp, mau nhập niết bàn ngay.”

“Nghĩ ngựa tốt thấy bóng roi, thiên lý truy phong gọi về được. ”Ngựa truy phong” vừa thấy bóng roi là đã vượt ngàn dặm, gọi về là quay về ngay. Tuyết Đậu có ý tán thưởng nói rằng, “ Nếu như tìm được nhựa giống , thì chỉ cần đẩy một cái, nó đã tự xoay chuyển; vừa gọi nó đã quay về. Gọi về được, bung tay ba lần.” Thử nói xem, đây là chấm phá hay là rải cát?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18430)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19909)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19585)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33489)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34607)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54601)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37834)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21201)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17951)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63769)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17447)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49762)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16909)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16429)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14522)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22536)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 57088)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13892)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29071)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33377)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38442)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31288)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13945)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14657)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14321)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12685)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14875)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19235)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13858)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12707)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30474)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11878)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30755)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29460)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30672)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31287)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37177)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32325)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23745)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12258)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14254)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14118)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 34032)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27778)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12483)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28705)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29429)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12465)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29289)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 28095)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25736)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26091)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22324)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33207)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31859)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39641)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22508)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34544)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27404)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28441)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant