Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cuộc đời của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII

10 Tháng Hai 201100:00(Xem: 9018)
Cuộc đời của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII


Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII ra đời vào năm 1758 tại Thobgyal, Lhari Gang, thuộc vùng Tsang miền Tây Nam của Tây Tạng. Cha mẹ ngài là Sonam Dhargye và Phuntsok Wangmo. Họ vốn là người từ vùng Kham và đã tìm về tổ tiên ở Dhrala Tsegyal, một trong những nơi sản sinh ra các anh hùng huyền thoại của thiên anh hùng ca Gesar. Ngay sau khi mẹ của ngài mang thai, vùng Lhari Gang đã được ban phúc với những vụ mùa bội thu, những điều kỳ diệu đã xảy ra trong lúc ngài đản sinh, những cầu vồng rực rỡ đã bao quanh căn nhà khi ngài cất tiếng khóc chào đời. Các đại diện từ Lhasa được gởi đến kiểm chứng ngài như thường lệ và khẳng định ngài chính là tái sinh của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VII. Vào năm 1761, ngài được đức Panchen Lama chính thức tuyên bố ngài chính là hiện thân của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VII – Kelang Gyaso. Qua năm sau, ngài được viên quan nhiếp chính đưa đến Lhasa và làm lễ đăng quang ở cung điện Potala. Ngài Panchen Lama đã truyền Ngũ giới, đặt Pháp danh là Jampal Gyatso, sau đó chính thức truyền lễ xuất gia cho ngài năm 1765 và truyền giới Cụ túc năm 1777. Panchen Lama cũng đã dạy dỗ, hướng dẫn và trao truyền giáo pháp Kinh tạng và Mật tông cho Jampal Gyatso trong suốt nhiều năm. Ngài được đào tạo theo truyền thống Gelugpa cũng giống như đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VII. Tuy nhiên, sau này, ngài đã theo truyền thống của các Đạt-lai Lạt-ma trước, là kết hợp giáo lý của phái Gelugpa và Nyingmapa trong quá trình hành pháp của mình.

Sau cái chết của viên quan nhiếp chính Jampal Delek, đức Đạt-lai Lạt-ma được yêu cầu lên nắm chính quyền nhưng ngài đã từ chối và tuyên bố rằng ngài chưa hoàn tất việc học hành của mình. Do vậy, ngài Ngawang Tsultrim ở chùa Tsernonling, một người rất nổi tiếng, một học giả lỗi lạc, là thầy giáo của hoàng đế trong suốt 14 năm - đã được đề cử lên làm quan Nhiếp chính để phụ giúp ngài về vấn đề chính trị. Một năm sau, ông được chọn làm Tri Rinpoche - người đứng đầu Tăng đoàn của phái Gelugpa và đứng vị trí thứ III trong giới Tăng sĩ Tây Tạng. Ông đã hoàn tất nhiệm kỳ của mình trong vòng 7 năm. Suốt thời kỳ vị thành niên của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII, thanh thế của ông càng trở nên nổi tiếng. Richardson suy luận về điều này rằng do đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII trưởng thành quá chậm và không có nét gì nổi bật. Ông cũng ghi về Panchen Lama: “Một người có tính cách đặc biệt, thông thái và đầy tài năng” , khác với một viên quan nhiếp chính dưới sự giám sát của chính quyền Trung Quốc, ngài được tự do hành động mà không có bất cứ sự can thiệp nào. Ngài được hoàng đế kính trọng, thường hay đến tham khảo ý kiến về các vấn đề tâm linh và chính trị. Nhà đại diện của Anh - George Bogle - người đến Tashi Lhunpo để thảo luận về vấn đề thương mại và các mối quan hệ về tiềm năng ngoại giao đã xem đức Panchen Lama như “là một chiến sĩ thật sự bảo vệ cho quyền lợi của Đạt-lai Lạt-ma và nhân dân Tây Tạng”.

Theo lời mời của hoàng đế Ch’ien Lung, sau khi đã cùng với Hội đồng chính phủ Tây Tạng và viên quan nhiếp chính cân nhắc thận trọng, Panchen Lama thực hiện chuyến viếng thăm Trung Quốc. Ngài ở trong Cung điện Màu Vàng mà trước kia đã xây cất cho đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V. Ngài rất được kính trọng, có uy thế lớn và được chọn làm thầy giáo của hoàng đế. Ngài có thể ngăn chặn được sự can thiệp của Mãn Châu với những vấn đề quốc sự của Tây Tạng và tăng thêm uy lực của đức Đạt-lai Lạt-ma sau khi đức Panchen Lama, thầy dạy của Ngài viên tịch vào năm 1780.

Sự ra đi của đức Panchen Lama đã thúc giục Trung Quốc phải trao toàn bộ quyền lực cho đức Đạt-lai Lạt-ma. Ngài đã đồng ý nhận lãnh những trách nhiệm này thể theo sự hối thúc của hoàng đế và lời thỉnh cầu của hội đồng chính phủ và quan nhiếp chính. Ngài lên nắm quyền vào tháng 07-1781. Tuy nhiên, đức Đạt-lai Lạt-ma đã yêu cầu quan nhiếp chính trợ giúp cho ngài về mặt này cho đến năm 1786 khi Ngawang Tsultrim trở lại Trung Quốc theo yêu cầu của hoàng đế. Trong thời kỳ này, đức Đạt-lai Lạt-ma đã ra lệnh xây dựng cung điện Nabulingka, nơi trú ngự vào mùa hè cho các đức Đạt-lai Lạt-ma. Cũng trong năm ấy ngài đã nhận ra hiện thân của đức Panchen Lama, truyền giới Ưu-bà-tắc cho ngài và đặt tên là Tenpe Nyingma. Năm 1789, đức Đạt-lai Lạt-ma đã truyền lễ Xuất gia cho đức Panchen Lama thứ IV và truyền giới Cụ túc vào năm 1801, ngài cũng đảm trách việc giảng dạy kinh điểnMật tông cho vị Panchen Lama trẻ này.

Lúc đức Panchen Lama thứ III viên tịch, người em trai và cũng là thủ quỹ của ngài đã lấy toàn bộ của cải được xem là di sản của ngài để lại. Ông ta không chia nó cho ai cả, vì vậy đã khiến cho dân chúng và các chùa chiền bất mãn, đặc biệt là đã làm cho người em trai út của ngài - vị Sharmapa Tulku thứ IX - rất bực bội. Ông ta đã về hưu một thời gian trước khi đến Nepal sống với dân tộc Gurkhas - những người mà hiện thời đang cùng ông bày mưu kế đòi quyền chia gia tài với anh trai của mình. Dân tộc Gurkhas là những người Hindu chính thống và là sự khinh bỉ của đa số nhân dân Tây Tạng, trước kia họ đã lật đổ triều đình Newari và củng cố quyền lực của mình ở Nepal. Họ đã tức giận vì những cuộc tranh cãi về vùng biên giới Tây Tạng và sự phàn nàn của Tây Tạng liên quan đến những chính sách về tiền tệ. Sự than phiền của vị Sharmapa Tulku thứ IX đã trở thành cái cớ để cho họ xâm chiếm Tây Tạng.

Người Gurkhas xâm lấn Tây Tạng chiếm giữ 3 quận vùng biên giới. Binh lính Trung Quốc được điều động sang để giải quyết tình hình này. Tuy nhiên, người Trung Quốc đã phản lại những ước vọng của nhân dân Tây Tạng, bao gồm cả hiệp ước mà Tây Tạng đã đồng ý cống nạp hàng năm cho Nepal. Các tài liệu của Tây Tạng đã mô tả về Trung Quốc như một sự chướng ngại, trong khi đó sử liệu Trung Quốc ghi chép lại những điều hoàn toàn trái ngược.

Theo Petech, viên phó quan nhiếp chính mới Tenpai Gonpo sớm được triệu đến Bắc Kinh, do em trai của đức Đạt-lai Lạt-ma vi phạm nên ông đã lợi dụng chức quyền trong một số việc hành chính. Shakabpa có đề cập rằng hai người em trai của Đạt-lai Lạt-ma, một là thư ký tài chính, một là thủ quỹ và những người khác (nhưng không có viên quan phó nhiếp chính) đã bị quan nhiếp chính Ngawang Tsultrim - người được điều về từ Bắc kinh - đưa đi lưu đàyTuy nhiên, sự qua đời của ông vào năm 1791 đã buộc phải triệu phó quan nhiếp chính - người đang trên đường đến Bắc Kinh - phải quay trở về.

Những người Gurkhas trở lại lấn chiếm Tây Tạng. Lần này họ xâm nhập vùng Shigatse và cướp bóc những kho báu của Tashi Lhunpo. Đức Panchen Lama phải tỵ nạn đến Lhasa. Các đại sứ ở đó đã thúc giục ngài và đức Đạt-lai Lạt-ma nên tránh sang vùng Kham. Dân chúng bắt đầu hoang mang. Đức Đạt-lai Lạt-ma đã trấn an họ bằng cách từ chối việc rời bỏ Lhasa, thêm vào đó, các vị Viện chủ của ba ngôi chùa chính đã cam kết là sẽ bảo vệ đức Đạt-lai Lạt-ma, cung điện Potala và ngôi chùa Jokang. Nhờ có nạn dịch hoành hành những toán lính của Nepal nên quân đội Tây Tạng đẩy lùi được dân Gurkhas. Một đội quân Trung Quốc được chi viện đến cùng với dân Tây Tạng để đẩy lùi người Nepal, chiếm đóng thủ đô Nepal. Sharmapa Tulku đã tự tử bằng độc dược, sau hậu quả của chiến tranh, của cảitài sản của ông đã bị chính phủ Tây Tạng tịch thu. Một hiệp ước đã ký kết buộc người Gurkhas phải cống nạp cho triều đình và hoàn trả lại toàn bộ số của cải mà họ đã cướp bóc của Tashi Lhunpo.
Hoàng đế Ch’ien Lung ra lệnh cải cách lại bộ máy chính quyền Tây Tạng cũng như các hoàng đế trước vẫn thường làm. Các đại sứ được ban thêm nhiều thẩm quyền hơn. Đức Đạt-lai Lạt-ma và Panchen Lama phải thông báo với họ nhiều hơn với hoàng đế. Snellgrove, Richardson và Shakabpa vạch trần rằng Trung Quốc chỉ chống đỡ sự kết thúc trong mối quan hệ giữa giáo sĩ - người đỡ đầu của họ bằng cách gởi những toán lính viện trợ đến Tây Tạng mà thôi. Họ cũng nhận thấy rằng cương vị chúa tể của Trung Quốc chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn và những biến đổi vào tháng 03-1792 đã khiến cho nó chỉ còn “tồn tại chủ yếu trên mặt giấy tờ”.

Sự thay đổi dẫn đến việc đóng cửa các đường biên giới đối với tất cả người ngoại quốc, dường như để đối phó lại, Trung Quốc cũng thực hiện một chính sách tương tự. Shakabpa đưa ra giả thuyết rằng người Tây Tạng đã làm như thế dưới sức ép từ các ngôi chùa lớn ở Lhasa, những người đang lo ngại về mối đe dọa sự ảnh hưởng ngoại bang đối với những vùng Phật giáo. Tây Tạng đã trở thành một vùng đất khép kín trong suốt thế kỷ XIX.

Vào năm 1793, sự thay đổi đã gây sự tranh cãi lớn ở Tây Tạng, đó là việc đưa ra một phương pháp chọn sự tái sinh của các bậc Cao Tăng bằng phương pháp xổ số (điều may rủi). Trung Quốc cảm thấy việc chọn lọc những nhân vật tôn giáo vĩ đại ở Tây TạngMông Cổ đã trở thành chủ đề cho sự lạm dụng, viện dẫn những tính thường xuyên xảy ra mà các Tulkus đã được chọn từ những gia đình quý tộc. Một chiếc bình bằng vàng dùng để đựng tro hỏa táng được gởi đến từ Trung Quốc, trong đó có đựng tên của các ứng cử viên cho các tái sanh của Lama và một cái thăm bốc trúng cho người thắng cuộc. Tuy nhiên, lần đầu tiên sử dụng cách tuyển chọn ấy lại trúng ngay đức Đạt-lai Lạt-ma, do vậy phương pháp này đã bị phớt lờ đi.
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII – Jampal Gyatso – viên tịch vào năm 1804. Theo Mullin thì “ngài đã thể hiện được những phẩm chất tâm linh tuyệt diệu xen lẫn với sự chán ghét đối với mưu đồ chính trị”. Đệ tử của ngài, Tenpa Nyima - đức Panchen Lama thứ IV - đã rất mực kính trọng ngài bởi vì ngài có liên quan đến các bậc đại Đạo sư và để lại bộ máy chính quyền Tây Tạng cho các viên quan nhiếp chính. Trong thời kỳ lãnh đạo của ngài, do hoàn cảnh chiến tranh giữa Tây Tạng và Nepal nên một lần nữa Tây Tạng đã phải chịu sự thống trị của Trung Quốc. Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII đã được tưởng nhớ nhiều nhất nhờ vào việc xây dựng cung điện mùa hè Norbulingka cho các vị Đạt-lai Lạt-ma.■

Nguồn: Tập San Pháp Luân 37


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8044)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con ngườisự nghiệp Lý Công Uẩn.
(Xem: 35621)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19749)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11737)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23235)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13390)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5861)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10641)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10387)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 10087)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20891)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6220)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6865)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8905)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 6028)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18168)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6370)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6750)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6569)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 13046)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5883)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7905)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10236)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7886)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9883)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9096)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 5997)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24573)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36451)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7754)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11569)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 10069)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5242)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5440)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 10028)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7897)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9388)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8676)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46578)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6923)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12355)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5818)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14541)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13031)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12467)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14614)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12468)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10969)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9654)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16741)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8498)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5982)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9971)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6394)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11377)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7063)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46749)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13524)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8413)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6878)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9200)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6197)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6926)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17890)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18217)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15833)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6972)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31285)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9595)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7712)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21662)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34195)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33352)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14250)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35700)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 13017)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15792)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13703)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 33081)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26418)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41457)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40392)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 20075)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33732)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29702)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33744)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18908)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22749)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22497)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 49034)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 11985)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11173)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22545)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 18022)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15141)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22712)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 16015)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13127)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19751)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12077)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant