Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

21. Pháp Vô Ngã (Anattà)

01 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 8780)
21. Pháp Vô Ngã (Anattà)

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

Quyển I:
Tam Bảo

CHƯƠNG I: BA NGÔI CAO CẢ (TIYAGGA)


PHÁP VÔ NGÃ (ANATTÀ)

Pháp vô ngã không những có trong ngũ uẩn, mà còn gồm có trong các pháp hữu vipháp vô vi.

Đức Phật dạy: Sabbe dhammā anattā.

Tất cả các pháp hữu vi, pháp vô vi đều là pháp vô ngã.

Pháp hữu vi: Đó là ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới...là pháp được cấu tạo bởi 4 nhân duyên: nghiệp, tâm, thời tiết, vật thực. Các pháp hữu vi này đều là pháp vô ngã.

Pháp vô vi: Đó là Niết Bàn (kể cả pháp chế định) là pháp không bị cấu tạo bởi 4 nhân duyên: nghiệp, tâm, thời tiết, vật thực. Pháp vô vi này cũng đều là pháp vô ngã.

Pháp vô ngã này chỉ có trong Phật giáo; ngoài Phật giáo, hoàn toàn không có quan niệm về pháp vô ngã này.

Thật vậy, trong đời, người nào không biết về Phật giáo, người ấy có thể có quan niệm về vô thường, quan niệm về khổ, nhưng không bao giờ có quan niệm về vô ngã.

Ví dụ: Khi người ta gặp trường hợp người hoặc vật đang có hiện hữu rồi chết hoặc mất, không còn hiện hữu nữa. Người ta than rằng: Vô thường! Vô thường! Có rồi không có!

Khi người ta mắc bệnh hoạn hoặc ốm đau, bệnh nan y khó chữa, hoặc gặp phải tai nạn bi thương... người ta thốt lên rằng: Khổ quá! Khổ quá! Không chịu đựng nổi!

Trong những trường hợp ấy chẳng bao giờ nghe người ta thốt lên: Vô ngã! Vô ngã!

Bởi vì, những người ấy không có quan niệm về vô ngã, mà chỉ có tà kiến thấy sai, chấp lầm từ ngũ uẩn bên trong của mình và ngũ uẩn bên ngoài (của người khác) cho là ngã, ta, người, chúng sinh v.v... mà thôi.

Vả lại, những người ấy có quan niệm về vô thường, khổ quá thô thiển; nghĩa là mỗi khi gặp hoàn cảnh xấu, trường hợp có rồi không có, lâm bệnh, tai nạn... thì mới thốt lên: Vô thường! Khổ quá!

Trong cuộc sống bình thường, những người ấy có tà kiến thấy sai chấp lầm đảo điên, trong ngũ uẩn bên trong của mình và ngũ uẩn bên ngoài (của người khác), chúng sinh khác cho rằng: thường, lạc, ngã, tịnh.

Trong Phật giáo, những người nào học hỏi nghiên cứu, thực hành theo giáo pháp của Đức Phật, những người ấy có ý thức rõ ràng về vô thường, khổ, vô ngã vô cùng vi tế, sâu sắc. Thật ra: Vô thường, khổ, vô ngã có trong thật tánh của các pháp hữu vi, bởi vì pháp hữu vi sinh rồi diệt không ngừng, nên có trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã. Đặc biệt nhất đối với hành giả đang tiến hành thiền tuệ, có trí tuệ thiền tuệ phát sinh, thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn, nên trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn bằng chánh kiến thiền tuệ mới diệt được tà kiến, thấy sai chấp lầm nơi sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn cho rằng: thường, lạc, ngã, tịnh.

Tự ngã có thật hay không?

Đức Phật dạy: Tất cả các pháp hữu vi, pháp vô vi đều là pháp vô ngã. Như vậy, theo giáo pháp của Đức Phật thì không có tự ngã, cái ta thật.

Thật vậy, người ta có quan niệm rằng ta đi, ta đứng, ta ngồi, ta nằm, ta thấy, ta nghe, ta ngửi, ta nếm, ta cảm giác, ta suy nghĩ, ta buồn, ta vui, v.v...v.v... Trong vô số cái ta ấy, thử hỏi cái ta nào là cái ta thật?

Sở dĩ, có vô số cái ta ấy, là do tà kiến thấy sai, chấp lầm từ sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn hay nói cách khác do tà kiến thấy sai, chấp lầm từ sắc pháptừ danh pháp cho là ta, ngã. Khi có tà kiến thấy sai, chấp lầm từ ngũ uẩn, hoặc sắc pháp, danh pháp bên trong của mình cho là ta, ngã; thì cũng thấy sai, chấp lầm ngũ uẩn, danh pháp, sắc pháp bên ngoài (của người khác) của chúng sinh khác cho là người, chúng sinh v.v...

Như vậy, cái ta thật không có, mà chỉ có tâm tà kiến là có thật.

Tự ngã, cái ta không có thật, thì phương pháp diệt ngã cũng không có.

Tâm tà kiến có thật, nên phương pháp diệt tâm tà kiến có thật

Nếu khi đã diệt được tâm tà kiến theo chấp ngã rồi, thì chắc chắn không còn thấy sai, chấp lầm từ sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn, hoặc từ sắc pháp, từ danh pháp cho là ta, là người, là chúng sinh v.v... vĩnh viễn không phát sinh lại được nữa.

Phương pháp diệt tâm tà kiến chỉ có cách tiến hành thiền tuệ mà thôi. Khi trí tuệ thiền tuệ phát sinh tuần tự từ thấp đến cao qua 16 trí tuệ thiền tuệ, lần thứ nhất, đến trí tuệ thứ 14 gọi là Nhập Lưu Thánh Đạo Tuệ. Chính trí tuệ thiền tuệ Siêu tam giới này có Niết Bàn làm đối tượng, mới có khả năng đặc biệt diệt đoạn tuyệt được tâm tà kiến theo chấp ngũ uẩn (sakkāyaḍiṭṭhi) hoặc tà kiến theo chấp ngã (attānuḍiṭṭhi). Cho nên, đối với bậc Thánh Nhập Lưu hoàn toàn không còn tà kiến theo chấp ngũ uẩn, hoặc tà kiến theo chấp ngã, bất cứ lúc nào trong kiếp hiện tại, hoặc kiếp vị lai (nhiều nhất 7 kiếp nữa).

Chấp ngã có 3 loại

Sự chấp ngã có 3 loại:

Tà kiến theo chấp ngã.
Tham ái theo chấp ngã
.
Ngã mạn theo chấp
ngã.

Tà kiến theo chấp ngã: Tà kiến theo chấp sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn... cho là tự ngã của ta (eso me attā). Bậc Thánh Nhập Lưu có khả năng diệt đoạn tuyệt được loại tà kiến theo chấp ngã này không còn dư sót, còn lại tham ái theo chấp ngã ngã mạn theo chấp ngã vẫn còn. Song bậc Thánh Nhập Lưu không bao giờ tạo ác nghiệp nặng nào có thể cho quả tái sinh trong 4 cõi ác giới: địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh; chỉ tái sinh cõi người hoặc cõi trời dục giới nhiều nhất là 7 kiếp, đến kiếp thứ 7 chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh Arahán, tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Tham ái theo chấp ngã: Tham ái theo chấp sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn cho là của ta (etaṃ mama). Bậc Thánh Bất Lai có khả năng diệt đoạn tuyệt được loại tham ái theo chấp ngã trong cõi dục giới. Còn tham ái loại vi tế trong bậc thiền hữu sắc, bậc thiền vô sắc, trong cõi sắc giới, cõi vô sắc giới chưa diệt được và ngã mạn theo chấp ngã cũng chưa diệt được. Cho nên, bậc Thánh Bất Lai mãn kiếpcõi người, không trở lại tái sinh cõi dục giới, mà chính bậc thiền hữu sắc (hoặc bậc thiền vô sắc) sẽ cho quả tái sinh lên cõi trời sắc giới (hoặc cõi trời vô sắc giới) và chắc chắn sẽ trở thành Bậc Thánh Arahán trên cõi trời sắc giới ấy, rồi tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Ngã mạn theo chấp ngã: Ngã mạn theo chấp sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn... cho là ta (eso hamasmi). Bậc Thánh Arahán có khả năng diệt đoạn tuyệt được loại ngã mạn theo chấp ngã này, và tham ái theo chấp ngã loại vi tế trong các bậc thiền và cõi trời sắc giới, cõi trời vô sắc giới. Cho nên, bậc Thánh Arahán mãn kiếpcõi người, đồng thời tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hối trong ba giới bốn loài.

Chấp ngã - không chấp ngã

Tất cả chúng sinh nói chung, con người nói riêng, hễ còn là phàm nhân, chưa phải Thánh Nhân, thì còn chấp ngã do bởi phiền não, nhất là tà kiến, tham ái, ngã mạn.

Sở dĩ một số phàm nhân vẫn còn có chấp ngã, là vì họ không đến gần gũi thân cận với bậc thiện trí trong Phật giáo, với bậc Thánh Thanh Văn; không được lắng nghe chánh pháp, không hiểu biết chánh pháp, không hành pháp hành thiền tuệ, không chứng đắc thành bậc Thánh Nhân... Do đó, số phàm nhân ấy có phiền não nặng nề, nên còn chấp ngã, rồi tự làm khổ mình, làm khổ người, làm khổ mình lẫn người, trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai.

Còn những hạng thiện trí phàm nhân thường đến gần gũi thân cận với bậc thiện trí trong Phật giáo, với bậc Thánh Thanh Văn Giác; được lắng nghe chánh pháp, hiểu biết chánh pháp, tiến hành pháp hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn, diệt đoạn tuyệt được phiền não trở thành bậc Thánh Arahán. hoàn toàn không còn tà kiến, tham ái, ngã mạn nữa, bậc Thánh Arahán có trí tuệ sáng suốt thấy rõ, biết rõ ngũ uẩn này là:

Không phải tự ngã của ta (na me so attā).
Không phải của ta (netaṃ mama).
Không phải là ta (nesohamasmi).

Cho nên, bậc Thánh Nhân không còn làm khổ mình, không làm khổ người, không làm khổ mình lẫn người.

Nếu hành giả tiến hành thiền tuệ mà chưa chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả nào, thì vẫn còn là hạng thiện trí phàm nhân (kalyāṇaputhujjana) chưa diệt được tà kiến chấp ngã. Tuy hạng thiện trí phàm nhân còn tà kiến chấp ngã, nhưng tà kiến chấp ngã này chỉ có trở ngại cho Siêu tam giới thiện pháp mà thôi, chứ không làm trở ngại cho việc tạo mọi tam giới thiện pháp đó là dục giới thiện pháp, sắc giới thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp. Cho nên, hạng thiện trí phàm nhân này sau khi chết:

- Nếu có dục giới thiện nghiệp cho quả tái sinh, thì được tái sinh làm người, hoặc làm thiên nam hoặc làm thiên nữ ở 1 trong 6 cõi trời dục giới.

- Nếu có sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sinh, thì được tái sinh làm phạm thiên ở 1 trong 16 cõi sắc giới phạm thiên.

- Nếu có vô sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sinh, thì sinh làm phạm thiên ở 1 trong 4 cõi vô sắc giới phạm thiên.

Như vậy, tà kiến chấp ngã của hạng thiện trí phàm nhân chỉ có trở ngại cho pháp Siêu tam giới, nghĩa là ngăn cản sự chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh QuảNiết Bàn mà thôi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 211)
A-la-hán là vị đã chứng đạt quả vị thứ tư trong bốn Thánh quả: Kinh Sa-môn quả của Trường bộ kinh có nêu:
(Xem: 288)
Giáo lý của nhà Phật được trình bày một cách tuần tự thứ lớp tạo thành một hệ thống hợp lý có tương quan chặt chẽ với nhau,
(Xem: 496)
Đức Phật thị hiện trong đời vì một đại sự nhân duyên: “Khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến”.
(Xem: 473)
Trong Kinh Giải Thâm Mật do ngài Huyền Trang dịch, phẩm Du già (Yoga) thứ 6 giảng về Chỉ (Samatha, Định), Quán (Vipassana, Quán) và Chỉ - Quán đồng thời.
(Xem: 495)
Hầu hết các loài trên hành tinh này đều thiếu khả năng trí tuệ để xây dựng hệ thống niềm tin.
(Xem: 566)
Hầu như ai cũng công nhận rằng kinh sách cổ xưa đã trải qua nhiều đời và phải chịu sự sửa đổi, thêm bớt, hoặc hoàn toàn do ngụy tạo.
(Xem: 597)
Như một người lạc lối trong rừng hoang nguy hiểm chợt cảm thấy an ổn khi tìm thấy được đường ra, Bồ-đề Nguyện và Bồ-đề Hành
(Xem: 626)
Chúng ta ở đây để chia sẻ suy nghĩ của mình về những gì Phật giáo có thể mang lại trong thời đại Trí tuệ nhân tạo.
(Xem: 596)
Trong Kinh Tạng Pali, có kể hai truyện về hai người cha thời Đức Phật. Qua hai truyện này, chúng ta sẽ thấy sức mạnh của Chánh pháp.
(Xem: 764)
Mở đầu Bản “Giải thích Sáu mươi kệ tụng biện luận lý tính duyên khởi của Long Thọ”, ngài Nguyệt Xứng viết:
(Xem: 845)
Để phân tích sâu hơn câu chuyện "Bốn cô vợ" qua lăng kính Phật giáo, tôi sẽ mở rộng các khía cạnh triết lý,
(Xem: 698)
Là một thuật ngữ âm Hán – Việt, có lẽ khó hiểu với một số Phật tử cũng như những người trẻ.
(Xem: 1027)
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳ là thời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp.
(Xem: 993)
Trong suốt khoảng thời gian mười lăm thế kỷ khi Phật giáo có mặt ở Ấn Độ, đã xuất hiện những quan điểm khác nhau về...
(Xem: 807)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phật là phật tính. Và cũng do phật tính mà Đức Phật đã ban cho những lời giảng.
(Xem: 897)
Đức Phật (khoảng năm 450 trước Công nguyên) là người có giáo lý tạo thành nền tảng của truyền thống Phật giáo.
(Xem: 995)
Chỗ ở của người tu thường là nơi thanh vắng, núi rừng. Thời Đức Phật còn tại thế cũng thường ở trong những khu rừng.
(Xem: 869)
Trên con đường tiến hóa của mình, loài người tiến theo hướng càng ngày càng thiện lành hơn.
(Xem: 1147)
Đầu đà tăng còn gọi là khổ hạnh tăng. Hán dịch chữ Tăng, không chỉ riêng tăng nhân Phật giáo mà nhằm chỉ vị tăng của các tôn giáo Ấn Độ cổ đại.
(Xem: 1210)
Truyền Đăng sinh năm 1554, họ Diệp, hiệu Vô Tận, biệt hiệu Hữu Môn.
(Xem: 1281)
Tính nối kết là một đặc trưng của kinh Pháp Hoa. Ở đây chỉ trích ra một ít câu để làm rõ.
(Xem: 1278)
Vạn sự vạn vật hay các pháp hữu vi đều từ duyên mà khởi lên, chứ không có tự tánh.
(Xem: 1662)
Lama Zopa Rinpoche giải thích phương pháp thiền về tính không trong cuộc sống hàng ngày.
(Xem: 2004)
Vạn sự vạn vật hay các pháp hữu vi đều từ duyên mà khởi lên, chứ không có tự tánh.
(Xem: 1626)
Trong bài này sẽ nghiên cứu về chương thứ nhất, phẩm Tựa, của kinh Pháp Hoa để nhìn thấy phần nào tính vũ trụ của kinh
(Xem: 1746)
Khi một thiền giả theo đuổi con đường giới, vị ấy nên khởi sự thực hành khổ hạnhđể kiện toàn các đức đặc biệt ít muốn, biết đủ
(Xem: 2018)
Với ngày giác ngộ của Đức Phật và năm mới sắp đến, suy nghĩ của chúng ta được phát khởi từ...
(Xem: 2080)
Hai thời công phu còn gọi là triêu mộ khóa tụng (朝暮课诵) hoặc nhị khóa, tảo vãn khóa, đều áp dụng cho hàng xuất giatại gia mỗi ngày.
(Xem: 2306)
Người trí tạo thiên đường cho chính mình, kẻ ngu tạo địa ngục cho chính mình ngay đây và sau này.
(Xem: 2034)
Chúng ta kinh nghiệm thế giới vật chất bằng sáu giác quan của mình: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
(Xem: 1715)
Ta đã già rồi ư? Sự vô thường của thời gian quả thật không gì chống lại được.
(Xem: 2073)
Kinh Hoa Nghiêm còn gọi kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, là một kinh điển trọng yếu của Đại thừa. Bản kinh mô tả cảnh giới trang nghiêm huyền diệu
(Xem: 1830)
Từ bây giờ, là người mới xuất gia, nhiệm vụ của các con là sửa đổi và phát triển bản thân.
(Xem: 2158)
Việt Namquốc gia ở vùng Đông Nam Á cho nên chúng ta may mắn được hấp thụhai trường phái Phật giáo lớn nhất của thế giới,
(Xem: 2062)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 2439)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 2045)
Với ngày giác ngộ của Đức Phật và năm mới sắp đến, suy nghĩ của chúng ta được phát khởi từ
(Xem: 2051)
Chủng tử là hạt mầm của đời sống, là nguồn năng lượng đơn vị cấu thành nghiệp lực, là yếu tốsâu kín và căn bản quyết định sự hình thành cái ‘Ta’ (Ngã)
(Xem: 2298)
Đế Nhàn, gọi đầy đủ là Cổ Hư Đế Nhàn, là tổ sư đời thứ 43 Thiên Thai tông, một bậc cao Tăng cận đại, phạm hạnhcao khiết, giỏi giảng kinh thuyết pháp, độ chúng rất đông.
(Xem: 1831)
Giải thoát thì không có trước có sau, không có thừa! Và không có để lại bất kỳ cái gì.
(Xem: 2093)
Bản kinh chúng ta đang có là bản kinh 262 trong Tạp A Hàm Hán Tạng. Trong Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikaya) của tạng Pāli có một kinh tương đương, đó là kinh Chiên Đà.
(Xem: 2198)
Thực tại được kinh Hoa Nghiêm gọi là pháp thân Phật, được diễn tả nhiều trong các bài kệ của phẩm đầu tiên Thế Chủ Diệu Nghiêm.
(Xem: 2216)
Gần 26 thế kỷ về trước, sau khi kinh qua nhiều pháp môn tu tập nhưng không thành công, Đức Phật đã quyết định thử nghiệm chân lý bằng cách tự thanh tịnh lấy tâm mình.
(Xem: 1581)
Tín là niềm tin. Niềm tin vào Tam Bảotin tưởng vào Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 2205)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian đem lại an vui cho tất cả chúng sanh. Đạo Phật là đạo của giác ngộgiải thoát.
(Xem: 1585)
Pháp Lục hòa là pháp được đức Đạo sư nói ra để dạy cho các đệ tử xuất gia của Ngài lấy đó làm nền tảng căn bản cho nếp sống cộng đồng Tăng đoàn
(Xem: 1529)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha
(Xem: 1420)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người
(Xem: 2262)
Sự thành tựu tối thượng mà những vị đang đi trên con đường độc nhất tiến tới giác ngộ, là khả năng thành tựu tất cả từ hư vô.
(Xem: 1800)
Phật pháp như thuốc hay, nhưng tùy theo căn bịnh.
(Xem: 2119)
Pháp Duyên khởi, tiếng Phạn là Pratīya-samutpāda. Pratīya, là sự hướng đến. Nghĩa là cái này hướng đến cái kia và cái kia hướng đến cái này.
(Xem: 2433)
Phẩm này tiếng Phạn Sadāparibhūta. Sadā là thường, mọi lúc, mọi thời gian; Paribhūta là không khinh thường.
(Xem: 2679)
Ngày xưa, ở thành Xá-vệ có một vị trưởng giả giàu có, tiền tài châu báu vô lượng. Ông thường thứ tự thỉnh các vị sa-môn đến nhà cúng dường.
(Xem: 2852)
Đối với chúng con, bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm lãnh đạo, lấy Thế Tôn làm chỗ nương tựa.
(Xem: 2501)
Truyền thống Đại thừa Á Đông thường dịch nghĩa prajñāpāramitā là Huệ đáo bỉ ngạn (zh. 慧到彼岸), Trí độ(zh. 智度), Trí huệ độ người sang bờ bên kia.
(Xem: 2450)
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả.
(Xem: 1852)
Không có một chỗ nào để trụ trong giáo pháp Trung đạo. Tâm không có chỗ trụ thì không tự giải quyết được gì vì không có nơi để tập trung, nắm níu.
(Xem: 1859)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(Xem: 1667)
Kamma, Nghiệp, theo đúng nghĩa của danh từ, là hành động, hay việc làm. Định nghĩa cùng tột của Nghiệp là Tác ý (cetana).
Quảng Cáo Bảo Trợ
AZCMENU Cloudbase: Giải pháp TV Menu thông minh, tiện lợi, chuyên nghiệp!
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM