Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Tám: Thúy Nham Dạy Đồ Chúng Cuối Hạ

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15535)
Tắc thứ Tám: Thúy Nham Dạy Đồ Chúng Cuối Hạ

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 1

TẮC THỨ TÁM

THÚY NHAM DẠY ĐỒ CHÚNG CUỐI HẠ

 

THÙY: Nếu ông hiểu được ông có thể sử dụng nó trên đường, tựa như rồng gặp nước, cọp trên núi. Nếu không hiểu được, sự thật công ước vẫn áp đảo ông, ông giống như con dê non húc rào, kẻ ngổi gốc cây đợi thỏ. Có lúc một câu như sư tử ngồi xỗm, có lúc một câu như Kim Cương Bảo Vương Kiếm. Có lúc một câu làm hết người trong thiên hạ líu lưỡi, có lúc một câu như đuổi theo sóng cả. Nếu đã có thể sử dụng được nó trên con đường, thì khi gặp được tri âm ông biết phân biệt được cơ hội thích hợp, phân biệt được đúng với sai, và cùng chứng minh cho nhau. Ở chổ mà sự thật công ước áp đảo, với một con mắt, ông có thể cắt đứt hết mười phương, đứng sừng sững như đỉnh núi ngàn trượng.

Cho nên có câu nói, “Đại dụng hiện tiền, không còn qui tắc.” Có lúc coi một cọng cỏ như thân vàng mười sáu trượng (của Phật), có lúc coi thân vàng mười sáu trượng như một cọng cỏ. Thử nói xem bằng vào nguyên lý nào mà nói như thế? Xin thử nêu ra đây.

CỬ: Cuối mùa kiết hạ Thúy Nham dạy chúng rằng, “Cả một mùa hạ Thuý Nham đã nói chuyện với các huynh đệ. Thử nhìn xem lông mày của Thúy Nham có còn không?” Bảo Phúc nói, “ Kẻ làm giặc tâm trống không.” Trường khánh nói, “Sinh”. Vân Môn nói, “Quan”.

BÌNH: Người xưa học đạo sáng tham thiền chiều hỏi han, không có lúc nào là gián đoạn. Đến cuối hạ Thúy Nham lại dạy chúng như thế, song không khỏi quá đơn độc lừng lững. Quả là kinh thiên động địa. Thử nói xem, cả một kho lớn giáo lý, năm ngàn bốn mươi tám quyển, dù là nói tâm dạy tính, nói đốn nói tiệm, song có việc như vầy chăng? Một là vì nhân duyên thời tiết, song Thúy Nham quả thực là kỳ đặc. Coi thầy ta ăn nói như thế, thử nói xem ý của thầy ta cốt yếu là như thế nào? Cổ nhân đã buông một lưỡi câu, không bao giờ là hư giả cả. Luôn luôn có lý do để làm lợi cho người khác. Người ta phần đông hiểu lầm nói, “ Thanh thiên bạch nhật, Thúy Nham nói những lời không đâu vào đâu, không có chuyện gì lại vẽ chuyện. Cuối hạ lại tự trách lỗi lầm của mình, để khỏi bị người khác kiểm thảo.” May mà những lời này chẳng có gì đúng sự thật. Thứ kiến giải này đúng là diệt hết giòng giống Phật. Các bậc tông sư suốt các thời đại ra mặt với đời nếu không để dạy thiên hà thì hóa ra thành vô ích cả. Với mục đích gì? Đến mức này mà thấy rõ được thì mới biết rằng cỏ nhân quả là có cái khả năng đắt trâu của thợ cầy, đoạt cơm của kẻ đói. Người đời nay mỗi khi bị hỏi, bèn lo nhai nghiến chữ nghĩa, vin vào lông mày của Thuý Nham. Nhìn xem những người trong nhà của thầy ta hiểu ngay đường đi nước bước của Thúy Nham, thiên biến vạn hóa, chi li rườm rà, bất cứ chỗ nào họ cũng có chổ xuất thân cả. Cho nên họ mới có thể xướng họa như thế với Thúy Nham. Nếu như những lời của Thúy Nham không có gì là đăc biệt, thì việc gì mà Vân Môn, Bảo Phúc, Trường Khánh ba người phải ào ào xướng họa với thầy ta như thế?

Trường Khánh nói, “Kẻ làm giặc tâm trống không? Chỉ lời nói này thôi mà sau này đã gây ra biết bao nhiêu là giải thích theo tri thức cảm quan! Thử nói xem ý của Bảo Phúc là như thế nào? Kỵ nhất là đừng dựa vào ngôn ngữ để tìm ra ý của vị cổ nhân này. Nếu như ông toan đưa ra kiến giải thoe tri thức cảm quan hay định khái niệm hóa, Bảo Phúc sẽ móc mắt ông ra. Đâu có ai biết rằng lúc Bảo Phúc nói ra một “ chuyển ngữ”, là đã cắt đứt mất dấu chân của Thúy Nham rồi.

Trường Khánh nói, “Sinh”. Thiên hạ thường nói rằng thầy ta theo gót của Thúy Nham, cho nên mới nói “sinh”. May mà điều này chẳng đúng chút nào. Đâu có ai biết rằng lúc Trường Khánh nói “sinh” là thầy ta đưa ra kiến giải của riêng mình. Người nào cũng có chỗ xuất thân của mình cả. Nhưng mà tôi muốn hỏi ông, chỗ nào là chỗ sinh? Ginốg như thể là đối diện với một tay thành thạo đang múa Kim Cương Bảo Kiếm. Ai có khả năng phá được các kiến giải thông thường, cắt đứt được được mất thị phi, mới có thể thấy được cái chỗ mà Trường Khánh xướng họa với Thúy Nham.

Vân Môn nói, “ Quan” Quả thậtđặc sắc, có điều hơi khó tham thấu. Vân Môn thường dùng phương pháp một chữ Thiền mà dạy người ta, tuy rằng trong một chữ gom đủ cả ba câu. Thử nhìn cách thù xướng đối biện của vị cổ nhân này xem, quả nhiên là khác xa với người thời buổi này. Đây mới đúng là cách để nói ra một câu. Tuy rằng Vân Môn nói như thế, song ý của thầy ta quyết không phải là ở đây. Đã không ở đây, thì thử nió xem là ở đâu? Nếu như ông là một người mắt sáng,c ó khả năng chiếu cả trời đất, thì phải lung linh cả tám hướng chứ. Tuyết Đậu xỏ chữ “quan” của Vân Môn cùng với những lời của ba vị kia thành một chuỗi mà tụng ra.

TỤNG: 

Thúy Nham dạy chúng,

Ngàn xưa không đáp.

Chữ “quan” họa lại,

Mất tền thêm tôi.

Bảo Phúc hom hem

Uyển chuyển khó được.

Thúy Nham lăng xăng,

Rõ ràng lạ giặc.

Ngọc trắng không vết,

Ai biết thật giả?

Trường Khánh biết rõ,

Lông mày mọc dài.

BÌNH: Nếu như Tuyết Đậu mà không từ bi như thế, tụng ta cho người khác thấy, thì làm sao được gọi là thiện tri thức? Cổ nhân hành xử như vậy , nhất nhất đều là cực chẳng đã. Người học Thiền sau này thường hay bám víu vào ngôn ngữ, sinh ra kiến giải theo tri thức cảm quan, cho nên mới không thấy được ý của cổ nhân. Nếu như có một người hốt nhiên bước ra, lật đổ giường Thiền, hét tan đại chúng, mình cũng chẳng trách hắn được.Dù là thế đi nữa, cũng cứ phải thực sự đạt đến mức độ này mới được.

Khi Tuyết Đậu nói, “Ngàn xưa không đáp”, thầy ta chỉ muốn nói rằng nhìn xem lông mày của Thuý Nham có còn đó không. Có cái gì là đặc sắc đâu mà bảo là xưa nay không ai đáp được? Phải biết rằng cổ nhân mỗi khi thốt ra một lời hay nửa câu tuyệt nhiên không bao giờ sơ hốt đâu…Phải có đôi mắt nhìn rõ càn khôn mới có thể hiểu nổi. Tuyết Đậu nói ra một lời hay nửa câu, giống như Kim Cương Bảo Kiếm, như sư tử ngồi xổm trên mặt đất như lửa tóe ra từ đá lửa, như điện sấm sét. Nếu như không có mắt trên đỉnh đầu, làm sao mà thầy ta có thể thấy được cái cốt yếu của lời nói của Thúy Nham? Lời dạy của Thúy Nham đúng là xưa nay không ai đối đáp được. Còn hơn cả gậy của Đức Sơn và tiếng hét của Lâm Tế. Thử hỏi xem, chỗ vì người của Tuyết Đậu là ở chỗ nào? Ông hiểu câu nói, “ngàn xưa không đáp” này của Tuyết Đậu như thế nào?

“Chữ quan” họa lại, mất tiền thêm tội,” có nghĩa là gì? Dù cho ông có đôi mắt nhìn thấu quan này đi nữa, đến chỗ này ông cũng cứ phải trân trọng mới được. Thử nói xem, Thúy Nham mất tiền thêm tội hay là Vân Môn mất tiền thêm tội? Nếu như ông nhìn thấu được, tôi chịu ông là người có mắt đó.

“Bảo Phúc hom hem, uyển chuyển khó được. Phải chăng thầy ta hạ thấp mình? Nâng cao cổ nhân? Thử nói xem, Bảo Phúc hạ thấp chỗ nào nâng cao chỗ nào?” Thúy Nham lăng xăng, rõ ràng là giặc.” Thử nói xem thầy ta trộm cái gì mà Tuyết Đậu lại gọi Thầy ta là giặc? Tránh đừng có để bị lời lẽ của thầy ta ràng buộc. Đến mức độ này phải có khả năng riêng của mình thì mới được.

“Ngọc trắng không vết.” Tuyết Đậu tụng Thúy Nham giống như ngọc trắng không có chút tì vết. “Ai biết thật giả?” Có thể nói là rất có ít người phân biết được. Tuyết Đậu đại tài cho nên mới xâu từ đầu tới đuôi thành một chuỗi được. Mãi tới khúc cuối mói nói, “Trường Khánh biết rõ, lông mày mọc dài.” Thử nói xem mọc ở chỗ nào? Mau tìm thử xem!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12526)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14115)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10858)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10527)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11200)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12008)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13164)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13657)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33679)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11342)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12937)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13067)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11640)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17904)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11452)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11869)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11517)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18985)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12560)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11350)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13156)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15787)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11829)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11705)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12781)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12640)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13975)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13004)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12956)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13305)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12780)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12714)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11761)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11742)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12335)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12393)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19833)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11973)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11999)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16895)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12681)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15069)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16130)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12897)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12250)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11926)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11931)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13164)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16514)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13236)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12503)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11831)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19869)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11167)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11267)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10408)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11104)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10977)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10042)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11759)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant