Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Tám Mươi Hai: Kiên Cố Pháp Thân Của Đại Long

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15387)
Tắc thứ Tám Mươi Hai: Kiên Cố Pháp Thân Của Đại Long

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 9

TẮC THỨ TÁM MƯƠI HAI

KIẾN CỐ PHÁP THÂN CỦA ĐẠI LONG

THÙY: Giây nơi đầu gậy, có mắt mới biết. Cơ biến đặc biệt, chuyên gia biện được. Song thử nói xem, giây nơi đầu gậy là gì? Cơ biến đặc biệt là gì? Thử nêu lên xem.

CỬ: Có ông tăng hỏi Đại Long, “Sắc thân bại hoại, thế nào là kiên cố Pháp Thân?” Đại Long nói, “Hoa núi nở tựa gấm, nước khe trong như ngọc.”

BÌNH: Nếu như dựa vào ngôn ngữ để tìm hiểu ý nghĩa của công án này thì cũng giống như thể khua gậy đánh trăng. Chẳng có gì là nhằm nhò cả. Cổ nhân đã nói rõ rằng, “Nếu như muốn đạt được chỗ thân thiết, đừng đem câu hỏi đến hỏi. Tại sao vậy? Bởi vì câu hỏi nằm trong câu trả lời, câu trả lời nằm trong câu hỏi.”

Ông tăng này gánh một gánh dấm dớ đến đổi lấy một gánh lúng túng. Đặt câu hỏi như thế, chỗ thất bại của ông ta không phải là ít. Nếu như không phải là Đại Long, sai có thể che trời trùm đất được? Ông tăng hỏi như thế, Đại Long đáp như thế, chính là một toàn thể. Đại Long chẳng hề di dịch một tơ hào, giống như thể thấy THỎ THẢ ƯNG, thấy lỗ đóng cọc. Ba thừa và mười hai phần giáo, còn có thời tiết này chăng? Kể cũng kỳ đặc hết sức, ngôn ngữ của thầy ta chẳng hề làm nghẹn họng thiên hạ. Cho nên mới có câu nói rằng, “Một phiến mất trắng ngang thung lũng, bao nhiêu chim đêm không thấy tổ.”

Có người bảo rằng đây chỉ là trả lời một cách khéo léo. Những kẻ hiểu như thế đúng là những kẻ diệt hết dòng giống của Phật. Chẳng hề biết rằng cổ nhân chỉ với một cơ một cảnh gỡ hết xiếng xích, mỗi một câu một lời đều là vàng ròng ngọc tinh. Nếu như là người có mắt và óc của nạp tăng, có lúc biết nắm giữ có lúc biết buông bỏ. Chiếu dụng cùng một lúc, nhân cảnh đều hoạt, vừa buông ra vừa thu vào. Thông biến tùy lúc. Nếu như khôngđại cơ đại dụng, làm sao mà bao trùm được trời đất như thế này? Giống như gương sáng trên giá, người Hồ đến thì phản chiếu bóng người Hồ, người Hán đến thì phản chiếu bóng người Hán.

Công án này giống như câu chuyện về dậu hoa (Tắc 39), song ý nghĩa lại không giống. Câu hỏi của ông tăng không rõ ràng, câu trả lời của Đại Long lại vô cùng khế hợp. Há không nghe có ông tăng hỏi Vân Môn, “ Lúc cây điêu linh lá rôi rụng thì như thế nào?” Vân Môn nói, “Thể lộ kim phong.” Đó gọi là “hai đầu mũi tên chạm nhau.” Ở đây ông tăng hỏi Đại Long, “Sắc thân bại hoại, thế nào là kiên cố Pháp Thân?” Đại Long nói, “Hoa núi nở tựa gấm, nước khe trong như ngọc.” Giống y như thể “Ông đi hướng tây về Tần, tôi đi hướng đông về Lỗ.”Người ta đã làm như thế thì tôi không làm như thế. Câu trả lời của Đại Long hoàn toàn tương phản với câu trả lời của Vân Môn. Vân MÔn hành động như vậy thì dễ thấy, Đại Long không hành động như vậy thì lại khó thấy. Song miệng lưỡi của Đại Long mới thật là kỳ diệu. Tuyết Đậu tụng rằng:

TỤNG

Hỏi mà không biết,

Đáp vẫn không hiểu.

Trăng lạnh gió cao,

Vách cổ thông lạnh.

Vui thay gặp được người đạt đạo,

Không dùng ngữ mặc đối.

Tay cầm roi ngọc trắng,

Đánh vỡ ngọc ly châu.

Không đập vỡ,

Thêm tì vết.

Nước có hiến chương,

Ba ngàn điều tội.

BÌNH: Tuyết Đậu tụng một cách công phu hết sức. Trước đây lúc tụng lời của Vân Môn, thầy ta nói, ”Câu hỏi đã có gốc, câu đáp cũng phải giống.” Bởi vì công án này không như thế, cho nên Tuyết Đậu nói, “Hỏi mà không biết, đáp vẫn không hiểu.” Câu trả lời của Đại Long chỉ liếc qua thôi cũng thấy là kỳ đặc hết sức. Câu trả lời của thầy ta rõ ràng đến mức những người hỏi thầy ta như vậy kể như đã thất bại ngay trước khi cất tiếng hỏi rồi. Với câu trả lời như thế, Đại Long có thể hạ thấp mình xuống để khế hợp với cơ nghi của ông tăng kia nói rằng, “Hoa núi nở tựa gấm, nước khe trong như ngọc.” Các ông bây giờ hiểu ý của Đại Long như thế nào? Câu trả lời của thầy ta chỉ cần liếc qua cũng thấy là kỳ đặc rồi.

Cho nên Tuyết Đậu mới tụng ra để cho thiên hạ biết rằng trăng lạnh gió cao lay động cội tùng trên vách cổ . Song thử nói xem, phải hiểu ý thầy ta như thế nào? Cho nên vừa rồi tôi mới nói rằn đó là ống sáo không lỗ đập lên tấm vản trải dạ. Chỉ bốn câu là đủ tụng hết rồi, Tuyết Đậu lại sợ thiên hạ rơi vào chỗ lập luận, cho nên nói rằng, “Vui thay gặp được người đạt đạo, không dùng ngữ mặc đối.” Việc này đã không phải là kiến văn giác tri lại cũng chẳng phải là tư lương phân biệt. Cho nên mới có câu nói, “Thẳng thắn không kiêm đới, độc văn dựa vào gì? Nếu gặp kẻ đạt đạo, chẳng dùng ngữ mặc đối.” Đây là câu tụng của Hương NghiêmTuyết Đậu dẫn dụng.

Há không nghe có ông tăng hỏi Triệu Châu, “Không dùng ngữ mặc để đối, chẳng hay dùng gì để đối?”Triệu Châu nói, “Trình cái thùng đen của ông ra.” Câu trả lời này cũng giống với lời của Đại Long, không rơi vào trong tình trần ý tưởng của các ông.

Giống cái gì cơ? Tay cầm roi ngọc trắng, đánh vỡ ngọc ly châu.” Cho nên lệnh của các Tổ Sư phải được thi hành, cắt đứt tất cả thiên chấp của thập phương. Đây là sựviệc trên lưỡi kiếm, cần phải có đảm lược như thế mới được. Nếu không như thế thì là cô phụ các bậc thánh từ xưa đến nay. Đến chỗ này rồi cần phải vô sự thì tự nhiên có cái hay của nó. Đó cũng chính là cách mà bậc hướng thượng cư xử.” Không đập vỡ” ắt đã làm nó có “thêm tì vết” rồi. Hẳn đã lậu đậu biết mấy.

Cuối cùng, các ông phải làm sao mới được cơ? “Nước có hiến chương, ba ngàn điều tội.” Ba ngàn điều khoản của ngụ hình, không có tội nào lớn hơn bất hiếu. Ông tăng kia một lúc phạm luôn cả ba ngàn điều tội. Tại sao vậy? Chỉ bởi vì ông ta không tiếp người khác bằng con người thật của mình. Nếu như là Đại Long thì hẳn đã không như thế.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22312)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16031)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15042)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18974)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14456)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18641)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14438)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13601)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13563)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11830)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13278)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13677)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13949)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13260)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15037)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16170)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11093)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16468)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11929)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17610)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12886)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13725)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12867)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14865)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16403)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13139)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12107)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12782)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12929)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12798)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14187)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14140)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16495)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12391)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14400)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11335)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11045)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13203)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13900)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13174)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13013)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13517)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12745)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10241)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13979)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10245)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13713)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16277)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11980)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12990)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11664)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12692)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10808)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11016)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10956)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11908)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12778)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11077)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12634)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11343)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant