Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

17-Cứu Kính Vô Ngã

23 Tháng Mười 201000:00(Xem: 9420)
17-Cứu Kính Vô Ngã


KINH KIM CANG
GIẢNG GIẢI

Hòa Thượng Thích Thanh Từ

 

ÐOẠN 17

ÂM:

CỨU KÍNH VÔ NGÃ.

Nhĩ thời Tu-bồ-đề bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Thiện nam tử, thiện nữ nhân phát A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề tâm, vân hà ưng trụ, vân hà hàng phục kỳ tâm? Phật cáo Tu-bồ-đề: Thiện nam tử, thiện nữ nhân phát A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề tâm giả, đương sanh như thị tâm, ngã ưng diệt độ

nhất thiết chúng sanh, diệt độ nhất thiết chúng sanh dĩ nhi vô hữu nhất chúng sanh thật diệt độ giả. Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề! Nhược Bồ-tát hữu ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, tức phi Bồ-tát. Sở dĩ giả hà? Tu-bồ-đề! Thật vô hữu pháp phát A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề tâm giả. Tu-bồ-đề! Ư ý vân hà? Như Lai ư Nhiên Ðăng Phật sở, hữu pháp đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề phủ?

- Phất dã Thế Tôn! Như ngã giải Phật sở thuyết nghĩa, Phật ư Nhiên Ðăng Phật sở, vô hữu pháp đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.

Phật ngôn: Như thị, như thị! Tu-bồ-đề, thật vô hữu pháp Như Lai đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. Tu-bồ-đề! Nhược hữu pháp Như Lai đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề giả, Nhiên Ðăng Phật tắc bất dữ ngã thọ ký: Nhữ ư lai thế đương đắc tác Phật, hiệu Thích-ca Mâu-ni. Dĩ thật vô hữu pháp đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, thị cố Nhiên Ðăng Phật dữ ngã thọ ký, tác thị ngôn: Nhữ ư lai thế, đương đắc tác Phật, hiệu Thích-ca Mâu-ni. Hà dĩ cố? Như Lai giả, tức chư pháp như nghĩa. Nhược hữu nhân ngôn: Như Lai đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, Tu-bồ-đề! Thật vô hữu pháp Phật đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. Tu-bồ-đề! Như Lai sở đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, ư thị trung, vô thật vô hư, thị cố Như Lai thuyết: Nhất thiết pháp giai thị Phật pháp. Tu-bồ-đề! Sở ngôn nhất thiết phápgiả tức phi nhất thiết pháp, thị cố danh nhất thiết pháp. Tu-bồ-đề! Thí như nhân thân trường đại.

Tu-bồ-đề ngôn: Thế Tôn! Như Lai thuyết nhân thân trường đại tắc vi phi đại thân, thị danh đại thân.

Tu-bồ-đề! Bồ-tát diệc như thị. Nhược tác thị ngôn: Ngã đương diệt độ vô lượng chúng sanh, tức bất danh Bồ-tát. Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề! Thật vô hữu pháp danh vi Bồ-tát, thị cố Phật thuyết nhất thiết pháp vô ngã, vô nhân, vô chúng sanh, vô thọ giả. Tu-bồ-đề! Nhược Bồ-tát tác thị ngôn: Ngã đương trang nghiêm Phật độ, thị bất danh Bồ-tát. Hà dĩ cố? Như Lai thuyết trang nghiêm Phật độ giả, tức phi trang nghiêm, thị danh trang nghiêm. Tu-bồ-đề! Nhược Bồ-tát thông đạt vô ngã pháp giả, Như Lai thuyết danh chân thị Bồ-tát.

DỊCH:

TỘT CÙNG KHÔNG CÓ NGÃ.

Khi ấy ngài Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Người thiện nam, người thiện nữ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác làm sao an trụ, làm sao hàng phục tâm kia? Phật bảo Tu-bồ-đề: Người thiện nam, người thiện nữ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên sanh tâm như thế này: Ta nên diệt độ tất cả chúng sanh, diệt độ tất cả chúng sanh rồi mà không có một chúng sanh thật diệt độ. Vì cớ sao? Tu-bồ-đề, nếu Bồ-tát còn tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả ắt không phải là Bồ-tát. Vì cớ sao? Tu-bồ-đề, thật không có pháp phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Như Lai ở nơi Phật Nhiên Ðăng có pháp được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chăng?

- Bạch Thế Tôn, không vậy! Như chỗ hiểu của con qua nghĩa Phật nói, Phật ở nơi Phật Nhiên Ðăng không có pháp được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Phật bảo: Như thế, như thế! Tu-bồ-đề, thật khôngpháp Như Lai được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này Tu-bồ-đề! Nếu có pháp Như Lai được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì đức Phật Nhiên Ðăng ắt không thọ ký cho ta: Ở đời sau, ông sẽ được thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni. Do thật không có pháp được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thế nên đức Phật Nhiên Ðăng mới thọ ký cho ta, nói thế này: Ở đời sau, ông sẽ đượcthành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni. Vì cớ sao? Như Lai tức là nghĩa Như của các pháp. Nếu có người nói Như Lai được pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, này Tu-bồ-đề, thật không có pháp Phật được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này Tu-bồ-đề! Như Lai được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, ở trong ấy không thật, không hư. Thế nên Như Lai nói tất cả pháp đều là Phật pháp. Này Tu-bồ-đề! Nói tất cả pháp đó tức không phải tất cả pháp, nên gọi là tất cả pháp. Này Tu-bồ-đề thí như có người thân cao lớn.

Ngài Tu-bồ-đề thưa: Bạch Thế Tôn! Như Lai nói thân người cao lớn ắt không phải thân lớn, ấy gọi là thân lớn.

- Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát cũng như thế, nếu nói lời thế này: Ta sẽ diệt độ vô lượng chúng sanh, ắt không gọi là Bồ-tát. Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề! Thật không có pháp tên là Bồ-tát. Thế nên Phật nói: tất cả pháp không ngã, không nhân, không chúng sanh, không thọ giả. Này Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát nói lời thế này: Ta sẽ trang nghiêm cõi Phật, ấy chẳng gọi là Bồ-tát. Vì cớ sao? Như Lai nói trang nghiêm cõi Phật tức chẳng phải trang nghiêm, ấy gọi là trang nghiêm. Này Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát thông đạt pháp vô ngã, Như Lai gọi đó là chân thật Bồ-tát.

GIẢNG:

Chúng tôi đã nói với quí vị rằng: KinhKim Cang chủ yếu là trả lời hai câu hỏi: Làm sao an trụ tâm, làm sao hàng phục tâm, nhưng câu hỏi đó phải đi đôi với câu trước là người phát tâm cầu thành Phật chớ không phải người thường. Người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác tức phát tâm cầu thành Phật, làm sao trụ tâm, làm sao hàng phục tâm? Câu hỏi đó ở trước Phật trả lời rồi, vậy tại sao ở đây ngài Tu-bồ-đề lại hỏi nữa? Bởi vì hai câu hỏi này là tối hệ trọng trên đường tu hành, nếu chúng ta nghe lướt qua, không chăm chỉ để hết tâm trí vào đó thì khó mà lãnh hội nổi, cho nên Ngài nhắc lại một lần nữa để Phật giải. Do đó tôi gọi là điệp khúc. Ðó là vì Ngài muốn chúng ta thấy rõ ý Phật dạy cách hàng phục tâm, cách an trụ tâm.

Ðức Phật trả lời: Nếu người thiện nam, thiện nữ phát tâm cầu thành Phật nên sanh tâm như thế này: Ta nên diệt độ tất cả chúng sanh, nhưng độ tất cả chúng sanh rồi mà không có một chúng sanh nào được diệt độ. Ðộ là qua, diệt là mất, tức là đưa tất cả chúng sanh qua chỗ tịch diệt qua mất hết. Tôi đã từng nói với quí vị: Mỗi niệm là một chúng sanh, đưa nó đến chỗ vô sanh, đưa nó qua đó rồi nhìn lại không còn chúng sanh nào hết, mà không còn một chúng sanh nào, như vậy lúc đó có còn tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả không? Quí vị nhớ chúng ta còn thấy ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả là do niệm sanh phải không? Do niệm khởi mới chấp ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Nếu niệm không khởi thì lấy gì chấp? Thế nên nói độ qua hết rồi thì không còn tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả. Sở dĩ hiện tại ai nói đến tên chúng ta liền nổi giận là vì vừa nghe nói, niệm liền khởi phân biệt nên mới giận, nếu nghe nói mà niệm không khởi thì đâu có giận. Nếu dấy niệm thì chấp ngã cho nên sân, không dấy niệm thì không chấp ngã cho nên không sân. Không chấp ngã thì không chấp nhân do đó tham sân si đâu còn. Như vậy chúng ta thấy rõ độ tất cả niệm đến chỗ vô sanh rồi bốn tướng cũng theo đó hết. Trái lại còn có niệm sanh thì còn bốn tướng. Thế nên muốn hàng phục tâm mình đến chỗ an trụ viên mãn thì phải độ tất cả chúng sanh. Tại sao ở đây đức Phật chỉ trả lời câu hàng phục tâm chớ không nói an trụ tâm? Bởi vì hàng phục rồi là an trụ. Ở� đoạn trước Phật dạy an trụ riêng, hàng phục riêng, nhưng ở đây kết thúc lại thì hàng phục là an trụ. Quí vị thử hàng phục tâm mình đi. Nếu mình độ hết tất cả chúng sanh rồi thì có an trụ không? Ðó là an trụ rồi, vì vậy không cần nói đến an trụ nữa. Nói độ tất cả chúng sanh mà không thấy có chúng sanh thật diệt độ. Do đó Phật bảo: Này Tu-bồ-đề, nếu Bồ-tát còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả thì không phải là Bồ-tát. Người không còn bốn tướng là người gì? Như vậy quí vị lo gì mình không làm Bồ-tát được. Nếu mình đừng dấy niệm, đừng khởi chấp ngã, lúc đó dù mình không tự xưng là Bồ-tát, không mang nhãn hiệu Bồ-tát nhưng vẫn là Bồ-tát. Trái lại dù mang nhãn hiệu Bồ-tát A, Bồ-tát B v.v. mà niệm khởi liền liền thì có phải là Bồ-tát chưa? Như vậy chúng ta thấy rõ Bồ-tát là người tâm không còn chấp, không còn kẹt. Hiểu như thế mới thấy được ý nghĩa của sự tu hành là phải đi đến chỗ độ hết chúng sanh, độ hết chúng sanh rồi là hàng phục, hàng phục rồi liền an trụ. Như thế mới thật là Bồ-tát. 

Tiếp theo Phật liền đặt câu hỏi: Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề, thật không có pháp phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thường thường khi tu, chúng ta thích lựa pháp cao để tu cốt mau thành Phật. Tuy nhiên khi phát tâm cầu thành Phật thì pháp để chúng ta ứng dụng tu là thật hay không thật? Nếu thấy pháp đó thật thì tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả còn hay không? Như muốn qua sông, tôi nhờ chiếc đò đưa qua sông rồi, tôi thấy chiếc đò là thật thì thế nào? Ðò thật thì tôi cũng thật, người chèo đò cũng thật. Tất cả đều thật! Thế nên qua sông rồi, thấy đò không còn quan trọng nữa mới bỏ đò được. Như vậy còn có pháp thì còn có ngã, còn có ngã thì còn có pháp, hai cái đó hỗ tương. Ðoạn trước Phật phá chấp ngã, ở đây Phật phá thêm chấp pháp. Ðây không phải pháp thường, pháp này là pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác mà còn không thấy là thật, thì tất cả pháp thế gian có pháp nào thật đâu! Khi chúng ta đưa ra một ý kiến, đó là pháp, nhưng nếu điều mình nói mà người ta không theo thì sao? Chúng ta giận phải không? Cái đó là phi pháp thì tại sao chúng ta giận? Pháp còn nên xả, hà huống phi pháp, nên nhớ câu đó. Nếu không chấp pháp thì không còn buồn phiền. Trái lại nếu nói việc này là thật là phải mà người ta không chịu nghe thì sao? Bởi chấp nó phải nên biến thành sân si, mà biến thành sân si thì còn phải nữa không? Chúng ta chấp việc phảichấp pháp phải, chấp pháp phải rồi thì ngã nổi lên, ngã nổi lên tức si mê dấy khởi. Thế nên người tu đến cả pháp cũng không chấp nữa.

Ðến đây tôi nói tế nhị hơn, như hiện nay quí phật tử thường nghe chúng tôi dạy tu thiền, thấy tu thiền hay liền ứng dụng tu. Bất thần, hôm nào có người chỉ mặt nói tu thiền là điên, là ngu si thì quí vị nghĩ sao? Lúc đó nếu chấp pháp của tôi hay thì ngã nổi lên, tức thì muốn đàn áp, muốn gây sự với họ. Như vậy có pháp là có ngã. Ðó là chỉ nói pháp tu thiền thôi. Còn đức Phật bảo cả pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cũng không thật. Thật là cao siêu, thâm diệu! Thế gian chúng ta quá nông nổi, những vọng tưởngý nghĩ không thật mà còn chấp, nghĩ ra là muốn bắt người khác theo, ai không theo thì giận ngay, thật là phi lý làm sao! Nếu ai gạt bỏ được những cái phi lý đó thì lần lần sẽ bớt khổ, bớt sân si. Ðó là chỗ tu. Thế nên phải thuộc lòng câu Pháp thượng ưng xả hà huống phi pháp. Pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác còn phải bỏ, huống nữa là cái phi pháp. Hiểu như vậy, quí vị mới sống một cách thoải mái nhẹ nhàng. Chúng ta hiểu, chúng ta ứng dụng tu mặc người đời chê khen. Giải thoát hay không là việc làm của mình, họ khen mình cũng không giải thoát, họ chê mình cũng không trầm luân. Chúng ta biết rõ tu như thế là có ích lợi cho mình thì cứ việc tu. Thí dụ như quí phật tử hàng ngày, buổi sáng, buổi trưa khi đói bụng thì ăn cơm, xong rồi thấy khỏe, đi làm công tác được; đều đều bữa nào như bữa ấy, mình thấy vui vẻ nhẹ nhàng. Bây giờ bất thần có người bảo ăn cơm là ngu si, là vô ích thì lúc đó chúng ta cứ ăn hay là ngưng không ăn? Vô lý quá, mình không ăn để đói sao? Thế nên những lời nói dù là lời chửi mắng, chê bai, mình nghe làm gì, nổi sân làm chi? Chúng ta biết rõ trăm phần đó là lẽ thật thì ai nói gì cũng mặc, chuyện mình làm mình biết rõ rồi. Người như vậy mới là người thật tin lẽ thật. Có nhiều người đang làm một việc lợi ích thật, nhưng vừa nghe người khác chỉ trích liền hoảng hốt nghi ngờ, đó là chưa có kinh nghiệm, chưa nhận lẽ thật; chớ nếu có kinh nghiệm, nhận lẽ thật rồi thì ai nói gì cũng không thay đổi lập trường. Trong sự tu hành cũng phải như thế. Quí vị thấy câu Pháp còn nên bỏ huống là phi pháp thật hay vô cùng, chúng ta ứng dụng thì lợi ích biết bao nhiêu. Chúng ta nghĩ phải mà nếu ai nói không phải, chúng ta bảo làm, họ nói không phải không làm, thì chúng ta nghĩ pháp của Phật còn phải xả huống nữa là cái phi pháp này, do đó chúng ta không giận hờn chi cả. Chúng ta có quyền đề nghị nhưng nghe theo hay làm theo là quyền của người, như vậy chúng ta mới không sân hận. Nhất là quí đạo hữu có quyền làm chủ gia đình, hay lấy quyền làm chủ bắt mọi người theo mình, nhiều khi đề nghị sai nhưng tựái không dám nhận lỗi. Thế nên nếu mình cởi mở, cho mỗi người được tự do, mình đề nghị nhưng khi thấy hợp, thấy hay thì họ làm, khi thấy không hợp, không hay thì thôi, mình cũng cười, không hờn gì cả, như vậy là an ổn nhất trong đời tu của mình.

Ðức Phật lại hỏi tiếp: Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao? Như Lai ở chỗ Phật Nhiên Ðăng có pháp được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không? Ngài Tu-bồ-đề phủ nhận: Bạch Thế Tôn, không. Tại sao Ngài dám phủ nhận? Chúng ta thấy Ngài nói thật là dè dặt: Như chỗ hiểu của con qua lời Phật nói, Phật ở chỗ Phật Nhiên Ðăng không có pháp được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bởi vì Ngài chưa thành Phật, Ngài chưa xả được, nhưng hiện giờ Ngài hiểu qua lời Phật dạy. Người xưa thật kỹ lưỡng, còn chúng ta bây giờ vừa hiểu một chút là nói bướng, xưng là ta nói, ta hiểu. Phật khen: Ðúng như vậy, đúng như vậy, này Tu-bồ-đề, thật khôngpháp Như Lai được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nếu thấy có pháp để được thì còn ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Phật giải nghĩa thêm: Này Tu-bồ-đề, nếu có pháp Như Lai được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì đức Phật Nhiên Ðăng ắt không thọ ký cho ta: Ở đời sau ông sẽ được thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni. Nếu ta còn thấy có pháp để được thì Phật Nhiên Ðăng không bao giờ thọ ký cho ta thành Phật. Do thật không có pháp được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên đức Phật Nhiên Ðăng mới thọ ký cho ta. Bởi Phật không thấy có pháp được nên Ngài được thành Phật, trái lại nếu thấy có một pháp được là không được thành Phật. Cũng thế, tất cả chúng ta tu mà còn thấy thân này thật, cảnh thật, pháp thật, thì không giác ngộ. Trái lại nếu chúng ta thấy nó giả, tạm có trong một thời gian ngắn chừng vài mươi năm không đáng kể, thì chúng ta trở về sống với cái thật. Ðó là chúng ta tỉnh, chúng ta giác, do tỉnh giác tương lai sẽ được Phật thọ ký. Như trong đoạn trước Phật bảo người trì kinh này, do tội đời trước, đáng lẽ bị đọa địa ngục, nhưng chỉ bị mắng chê thôi và sau này sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ðó là đúng lời Phật nói chớ tôi đâu dám ức thuyết. Phật nói rõ ràng như vậy, nghĩa là người nào biết rõ thân này, cảnh này là hư giả, do duyên hợp tạm có một lúc rồi hoại, trong cái tướng hư giả đó có cái chân thật đang bày hiện nơi sáu căn của chúng ta, nếu chúng ta sống được với nó thì tất cả cái hư giả đều vô nghĩa. Nếu không còn chấp thân, chấp cảnh, chấp pháp thì lúc đó sẽ được Như Lai ắt thấy chúng ta, ắt biết chúng ta tương lai sẽ thành Phật không nghi. Như thế làm người giác có khó không? Tôi thấy không khó chút nào, chỉ cần vận dụng trí nhìn cho đúng, thấy cho đúng thôi. Tỉnh rồi thì giác. Vậy tại sao không dùng trí mà cứ dùng tình thương ghét, buồn, giận rồi cả ngày nó cứ dẫn mình chạy loanh quanh không dừng. Thương ai, vắng mặt thì trông, thì tìm; ghét ai, gặp mặt thì tức, thì tránh. Chúng ta sống với cái Biết tất cả là giả, mang cái giả chạy tìm cái giả làm chi cho cực. Biết thế rồi cả ngày sống an lành tự tại, lúc nào cũng cười, vì tất cả đều giả thì có gì quan trọng mà giận, mà buồn!

Tuy không quan trọng nhưng vẫn phải làm, đó là chủ trương của Bồ-tát. Như Ngũ minhTứ nhiếp pháp là những phương tiện để Bồ-tát giáo hóa chúng sanh. Biết rằng thân giả, cảnh giả nhưng khi mê người ta thấy nó thật. Họ đang đói phải cho họ cơm ăn cho đỡ đói rồi mới giảng đạo lý, lúc tỉnh rồi họ mới nghe. Vì vậy mà Bồ-tát biết thân cảnh như huyễn, nhưng vẫn phải làm giúp người no ấm rồi mới giảng đạo lý cho họ nghe. Quí vị phải hiểu cho rõ, nếu không hiểu thì học Ðại thừa trở thành Tiểu thừa tiêu cực. Tại sao? Bởi vì nghe cái gì cũng giả thì chúng ta muốn ngồi không cho rồi, làm chi nữa vô ích. Như vậy trở thành tiêu cực yếm thế. Chỉ có mình biết nó giả chớ mọi người chưa biết, muốn cho người biết, mình phải có nghề nghiệp cho khéo (công xảo minh) để dạy người ta làm, trong khi làm mới nói chuyện đạo lý cho họ nghe, lần lần người ta thấm, đó là hạnh Bồ-tát. Quí vị phải hiểu như vậy mới đúng tinh thần kinh Kim Cang, đừng hiểu khác rồi trở thành tiêu cự�c yếm thế, trái đạo Ðại thừa. Ðó là chỗ thực tế của Phật pháp. Tóm lại đức Phật chỉ rõ nếu ở chỗ Phật Nhiên Ðăng, Ngài còn thấy có pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì Phật Nhiên Ðăng không thọ ký cho Ngài, bởi Ngài không thấy có pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nên mới được Phật Nhiên Ðăng thọ ký cho sau này thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni.

Ngài nói thêm: Vì cớ sao? Như Lai tức là nghĩa như của các pháp. Học kinhKim Cang là quí vị thâm nhập được nghĩa Như Lai. KinhKim Cang giải thích nghĩa Như Lai quá rõ. Nếu có người hỏi thế nào là Như Lai, quí vị dùng kinhKim Cang mà đáp: Như Lai giả vô sở tùng lai diệc vô sở khứ cố danh Như Lai, hoặc Như Lai giả tức chư pháp như nghĩa. Như Lai là gì? Như Lai là nghĩa như của các pháp. Nghĩa như các pháp là thế nào? Các pháp như đó là Như Lai. Các pháp làm sao như được? Tỉ dụ khi chúng ta đi, lúc đi là như như hay là động? Nếu là động, là biến đổi, là xê dịch thì đâu phải là như, cho đến tất cả sự vật ở cõi này có cái nào như đâu, cái nào cũng đang động, đang xê dịch, tại sao nói Như Lai là nghĩa như của các pháp? Ðúng vậy, Như Lai là nghĩa như của các pháp, bởi vì các pháp tự nó không động, mà động là do duyên hợp và do tâm động tịnh của mình, nên phân biệt cảnh động tịnh, như chuyện hai Sa di nói phướn động với gió động, còn Lục tổ nói tâm nhân giả động. Nếu tâm không động thì phướn còn động, gió còn động không? Tâm mình như thì cảnh cũng như, cho nên nói Như Lai là nghĩa như của các pháp. Khi nào đối với cảnh, tâm mình như như bất động thì đó là Như Lai chớ không có gì lạ cả. Như thế Phật chỉ hết sức rõ. Ví dụ như nhìn tất cả quí vị tôi thấỵ rõ hết, nhưng tôi không dấy một niệm phân biệt để thương người này, ghét người kia. Tâm không dấy niệm thương ghét, đó là tâm Phật bình đẳng, đó là như, do tâm như nên cảnh cũng như. Ðối với tất cả pháp ở cõi này cũng thế, gió thổi lá cây rung v.v. nhưng tâm mình như thì không dấy niệm phân biệt động tịnh. Phân biệt động tịnh thì các pháp động tịnh; không dấy niệm thì các pháp tự như đó là nghĩa Như Lai. Như vậy chúng ta thấy có cái nhất quán từ trước đến giờ. Phật dạy độ tất cả chúng sanh mà không thấy chúng sanh được diệt độ, đó là Như Lai. Ðến chỗ đó, không còn một niệm tức tâm mình như thì đối cảnh cũng như, đó là Như Lai, đó là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Rõ ràng lời Phật dạy thỉ chung nhất quán. Như thế trong kinh đã nói rõ, chúng ta không còn gì nghi ngờ

Nếu có người nói Như Lai được pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, này Tu-bồ-đề, thật không có pháp Phật được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này Tu-bồ-đề, Như Lai được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, ở trong ấy không thật không hư. Thật hư là đối đãi, mà chỗ Phật thấy, chỗ Phật ngộ không còn đối đãi. Còn chúng ta thấy có được, có mất là đối đãi, có thật, có hư là đối đãi. Thế nên chỗ Phật thành Phật, chỗ đó không còn đối đãi, đó mới là Phật, còn thấy đối đãi thì chưa phải là Phật. Thấy được tức là đối với mất, thấy hư là đối với thật. Như thế chỗ Phật đạt là chỗ không thật không hư.

Thế nên Như Lai nói tất cả pháp đều là Phật pháp. Câu đó quí vị thấy thật là cao siêu và lý thú làm sao! Chỉ một câu này là một bài giảng rồi. Tại sao? Bởi vì nếu chúng ta nhìn tất cả mọi mặt của các pháp thế gian thì pháp nào cũng là Phật pháp. Ðây tôi chỉ cho quí vị thấy, ngay trong cảnh tham sân si nếu mình biế�t ứng dụng đúng tinh thần đạo đức đó thì tham sân siPhật pháp. Tại sao? Tỉ dụ bây giờ quí vị phát tâm tu mạnh mẽ, khi đó có người kêu tên mình chửi, mình nổi sân lên thì đó là gì? Là phiền não, là phi Phật pháp. Còn nếu biết mình đang phát tâm tu mạnh mẽ mà người này chửi mình, có lẽ họ thử mình tức họ là Bồ-tát thử xem mình có kiên tâm chưa, nhân đó mình cảm ơn họ, mình vươn lên, không buồn giận gì hết. Như vậy phải là Phật pháp hay không? Tất cả việc khác cũng vậy, mọi việc đến với mình, mình cũng đều cho là thử thách xem mình có bền vững không, có tu thật không? Những thử thách đó, nếu vượt qua khỏi, là mình tiến lên một bước, như thế người giúp mình tiến là người ân phải không? Việc họ làm là Phật pháp rõ ràng, vì giúp cho mình tiến bộ. Tất cả pháp đều là Phật pháp. Phật pháp có nghĩa là hữu ích cho chúng sanh. Tất cả ở thế gian này quí vị thấy cái nào là vô ích cho mình, cho người hay không? Cho đến vật mà mình chê như mấy đống rác hôi hám, nhưng cũng có những người làm rẫy hốt về làm phân trồng rau, cho đến những thứ của mình bỏ ra, người ta cũng dùng được nữa thì có cái gì là vô ích đâu. Nếu biết dùng thì tất cả đều hữu ích cho chúng sanh, hữu ích tức là Phật pháp. Ðó là mình nhìn một cách phổ biến.

Bây giờ đến cái cao hơn, như người ta hay than phiềnthế gian có nhiều chướng ngại khó tu. Tỉ dụ người nặng về sắc dục thì nói rằng thấy những người đẹp nên chướng ngại khó tu, người nặng về tham của cải thấy những món vật tốt nên chướng ngại khó tu v.v. Tôi hỏi lại: Người đẹp, vật tốt có phải là cái chướng ngại hay không? Hay chướng ngại tại nơi lòng tham của mình? Sự thật người, vật không chướng. Nếu thấy nó làm chướng, làm mình động tâm thì đó là phiền não. Trái lại khi thấy người đẹp chúng ta liền dùng trí Bát-nhã thấy đó là tứ đại duyên hợp hư giả không thật, thấy vật tốt cũng biết đó là tứ đại duyên hợp hư giả không thật. Vừa thấy đó trí Bát-nhã liền hiện, như thế là Phật pháp rồi! Tất cả những cái khác cũng thế thì cái gì không phải là Phật pháp? Cao hơn nữa, là "Chư pháp như nghĩa". Thấy cái nào cũng như hết thì có cái gì không phải là Phật pháp? Trong kinh nói: Xúc mục là bồ-đề, tức thấy cái gì cũng là bồ-đề cả, cái gì cũng là như thì có cái gì không phải là Phật pháp? Quí vị thử kiểm xem thế gian có cái gì là chướng không? Không có chướng thì tại sao mình sợ, sợ là sợ cái gì? Sợ thế gian hay sợ tâm mình? Sợ vọng tưởng điên đảo của mình? Như vậy nếu người nào biết vọng tưởng điên đảo là cái đáng sợ thì hàng ngày cứ trị nó chớ cần gì phải trốn thế gian. Quí vị nghĩ đi đâu trốn thế gian được? Bất cứ nơi nào cũng nằm trong thế gian, vô rừng cũng là thế gian, ở núi cũng là thế gian, ở chợ cũng là thế gian. Chỉ có tâm mình an thì chỗ nào cũng là Phật pháp cả. Vậy tại sao chúng ta không lo trị vọng tưởng mà cứ lo trốn cảnh, trốn người v.v. Vậy thì chúng ta thấy cái nào là trọng tâm, là then chốt để chúng ta làm. Nếu muốn tu thì ngay nơi tâm mình mà tu. Trước hết nhắm thẳng tâm mình, làm sao trị những chú vọng tưởng thành những người lương thiện, chúng không còn điên đảo ngược xuôi nữa, chừng đó chúng ta mới nhẹ nhàng, rồi lần lần nó thuần thục nằm yên như con trâu mà mình ngồi trên lưng nó thổi sáo đi tự tại, thế là thảnh thơi lắm rồi đó. Như vậy mình phải trị mình, phải sợ mình chớ không sợ thế gian, vì tất cả pháp trên thế gian đều là Phật pháp. Nhất thiết pháp vô phi Phật pháp. Vô phi Phật pháp hay giai thị Phật pháp cũng thế, cũng có nghĩa đều là Phật pháp.

Nhất thiết pháp giai thị Phật phápPhật xác nhận rõ như vậy. Ðây tôi dẫn một câu chuyện để nhiều khi quí vị nghe mà không hiểu. Như có một lần, Ngài Văn Thù bảo Thiện Tài đồng tử: Ngươi ra ngoài núi tìm những cây cỏ thuốc đem về cho ta. Thiện Tài đồng tử bước ra ngoài thấy cây nào cũng là cây thuốc cả, liền về thưa: Bạch Hoà Thượng sao con thấy cây nào cũng là cây thuốc cả. Ngài Văn Thù mới bảo: Thôi ngươi ra ngoài tìm cây nào không phải cây thuốc đem về cho ta. Thiện Tài đồng tử đi ra nhìn thấy cây nào cũng không phải cây thuốc!* Như vậy là tại sao? Ðó là để nói rằng nếu chúng ta nhìn đúng, nếu chúng taquan niệm đúng đắn thì các pháp đều là Phật pháp. Trái lại nếu chúng taquan niệm sai lầm thì tất cả pháp đều là phiền não. Tại sao? Vì khi nói không phải thuốc thì Thiện Tài đồng tử đinh ninh trong tâm trí cái không phải thuốc rồi thấy cây nào cũng không phải thuốc. Chúng ta hiện nay cũng như thế. Vì chúng ta đang sống với vọng tưởng điên đảo nên nhìn cái nào cũng là vọng tưởng điên đảo. Khi chúng ta dùng trí tuệ Bát-nhã nhìn thì cái nào cũng là trí tuệ Bát-nhã. Như thế chúng ta thấy rằng tất cả cảnh không phải đẹp, không phải xấu, không phải lợi, không phải hại mà đẹp xấu lợi hạitại tâm mình phân biệt. Nếu tâm mình không phân biệt thì các pháp có lỗi lầm gì! Như vậy chúng ta thấy cái trọng tâm là do tâm mình chớ đừng nói tìm pháp nào thuận lợi cho mình. Câu Tất cả pháp đều là Phật pháp rất chí lý. Tuy nhiên khi nói câu này, đức Phật lại e chúng ta bám vào đó, chấp cho là thật nên Phật mới bảo: Này Tu-bồ-đề, nói rằng tất cả pháp đó tức không phải tất cả pháp, nên gọi là tất cả pháp. Như vậy khi nói tất cả pháp đều là Phật pháp là nhìn theo khía cạnh nào? Ðó là nhìn theo trí tuệ Bát-nhã, nghĩa là thấy tất cả pháp đều là tướng duyên hợp hư huyễn, thấy pháp nào cũng thế tức là trí tuệ Bát-nhã rồi. Trái lại nếu thấy tất cả pháp là thật, thì tất cả không phải là Phật pháp. Vì vậy không phải là thật, ấy là Phật pháp, nghĩa là thấy tất cả pháp đều là tướng duyên hợp không thật, nhưng trên giả danh thì tạm gọi là tất cả pháp.

Này Tu-bồ-đề, thí như có người thân cao lớn. Ngài Tu-bồ-đề đang dùng trí tuệ Bát-nhã thấy tất cả pháp không phải tất cả pháp nên ngài Tu-bồ-đề thưa: Bạch Thế Tôn, Như Lai nói thân người cao lớn ắt không phải thân lớn, ấy gọi là thân lớn. Nếu còn thấy thật cao, thật lớn thì chưa phải là lớn mà phải thấy rõ thân cao lớn đó chẳng qua là tướng duyên hợp, bởi tướng duyên hợp nên không thật là cao lớn nhưng trên giả danh thì gọi là cao lớn.

Này Tu-bồ-đề, Bồ-tát cũng như thế, nếu nói lời thế này: Ta sẽ diệt độ vô lượng chúng sanh, ắt không gọi là Bồ-tát. Ðức Phật nhấn mạnh lại chỗ chấp ngã, nếu còn thấy mình diệt độ tất cả chúng sanh thì không phải là Bồ-tát rồi. Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề, thật không có pháp tên là Bồ-tát. Kể cả danh tự Bồ-tát cũng không thật! Nếu còn chấp Bồ-tát là thật cũng còn kẹt. Thế nên đức Phật nói tất cả pháp không ngã, không nhân, không chúng sanh, không thọ giả. Này Tu-bồ-đề, nếu Bồ-tát nói lời thế này, ta sẽ trang nghiêm cõi Phật, ấy chẳng gọi là Bồ-tát. Vì cớ sao? Như Lai nói trang nghiêm cõi Phật tức chẳng phải trang nghiêm ấy gọi là trang nghiêm. Này Tu-bồ-đề, nếu Bồ-tát thông đạt pháp vô ngã, Như Lai gọi đó là chân thật Bồ-tát. Như vậy quí vị thấy trong đoạn này đức Phật chỉ rõ: Những vị Bồ-tát nếu còn thấy mình là Bồ-tát thì đó không phải là Bồ-tát. Như thế ai dám vỗ ngực xưng Bồ-tát thì người đó phải là Bồ-tát chưa? Vậy mà có người dám xưng Phật mẫu thì sao? Mạo xưng Phật mẫu, chúng ta tin được không? Xưng là Bồ-tát còn không phải Bồ-tát huống nữa là xưng danh hiệu gì. Xưng danh đó là ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả, người đó không phải là Thánh. Không phải Thánh mà xưng Thánh là mù quáng, mê tín. Vì thế trong nhà Phật thường nói những vị Bồ-tát khi thị hiện giáo hóa chúng sanh, lúc đang làm việc, không ai biết đó là Bồ-tát, đến khi gần tắt thở mới làm một bài thơ để lại, khi chúng ta biết đó là Bồ- tát là các Ngài đã đi rồi, chớ không bao giờ đang hiện tại mà xưng mình là Bồ-tát. Như vậy những người xưng mình là Thánh đó đều là tà quái chớ không phải Thánh đâu, kinh đã chỉ rõ ràng. Quí vị phải nhớ kỹ, có khi Bồ-tát ở bên cạnh phá mình tơi bời, nên mình xem không ra gì. Vì vậy chúng ta không dám khi một người nào, giả sử chúng ta mới phát nguyện tu mà có người tướng như yêu quái đến phá, mình đừng vội nghĩ họ là yêu quái mà phải tự bảo: Ðây chắc là Bồ-tát thị hiện thử mình. Nghĩ như thế nên mình thầm mang ơn người, thầm kính phục người tự nhiên quí vị tiến, quí vị thành công; trái lại nếu chúng ta nghĩ họ là yêu quái muốn trị họ, muốn phạt họ, làm dữ với họ tự nhiên mình thành yêu quái. Như vậy quí vị mới thấy rõ, khi nghĩ người ta yêu quái, mình biến thành yêu quái, khi nghĩ người ta là Bồ-tát mình là Bồ-tát. Thế nên, ai làm khó ngăn trở sự tu tiến của mình, hoặc là quyến rủ bằng cách này, cách khác, mình đều thấy họ là Bồ-tát. Tỉ dụ người đem đạo lý khuyên dạy mình, nhắc nhở mình từng cái dở, cái xấu để mình sửa, đó là Bồ-tát thuận hạnh; người làm trở ngại ngăn bước tiến của mình để mình vươn lên, đó là Bồ-tát nghịch hạnh. Tất cả đều là Bồ-tát. Như vậy đối với tất cả chúng sanh mình có tâm bình đẳng, ai cũng là người mình quí cả. Tâm Bồ-tát là tâm từ bi bình đẳng đối với tất cả chúng sanh. Nếu chúng ta thấy người này là ơn, người kia là thù thì bất bình, bất bình thì mình đã thành phàm phu mất rồi. Ðây là cứu kính chân thật. Chúng ta muốn thành Bồ-tát (nói muốn được cũng là tham vọng), muốn tiến tu thì phải thấy tất cả mọi người đều là Bồ-tát, Bồ-tát thuận hạnh, Bồ-tát nghịch hạnh, như vậy cả ngày không một niệm thù hằn, giận hờn. Nếu mọi người đều có tâm niệm tu như vậy thì có ai phiền não không? Ngày nào chúng ta cũng vui vẻ, ai chúng ta cũng quí cũng kính, giả sử người không phải Bồ-tát thật nhưng chúng ta đối với họ như vậy thì lâu ngày họ cũng thành Bồ-tát, bởi vì lúc đầu họ có niệm xấu, ngăn trở mình nhưng thấy mình vẫn kính, vẫn thương họ, sau cùng họ bị mình cảm hóa. Ðó là một điều rất hay, lợi mình, lợi người đầy đủ. Ðó là chỗ quan trọng trong sự tu hành. Thế nên chúng ta hiểu Phật pháp cho chí lý thì nhìn lại thấy cuộc đời đáng quí vô cùng, không có chỗ nào đáng chê, vì tất cả pháp đều là Phật pháp. Ai cũng là Bồ-tát thuận hạnh, nghịch hạnh, cõi này toàn là Bồ-tát còn gì mà chán, đợi về Cực lạc làm bạn bất thối chuyển thì xa quá, lâu quá. Ở ngay đây mình có bạn Bồ-tát rồi, vui biết chừng nào! Sống ở chùa không có chán gì cả, chúng ta thấy cõi đời này như Cực lạc, toàn thiện hữu tri thức bậc thượng vì toàn là Bồ-tát, và pháp nào cũng là Phật pháp thì đâu còn gì buồn chán. Ðợi về Cực lạc mới nghe chim thuyết pháp, mới nghe nhạc trời thì lâu quá. Nơi đây, nếu biết tất cả pháp đều là Phật pháp thì còn gì không phải Phật pháp mà phải đi kiếm Phật pháp làm chi. Như vậy quí vị thấy nếu chúng tatâm địa cứng cỏi và khéo léo thì việc tu hành ở cõi đời này hay vô cùng, chuyển cõi ta bà thành tịnh độ ngay trong cuộc sống này, chuyển tất cả những bạn bè không tốt trở thành tốt, tất cả mọi người đều thành người tốt, dù ai nói sao đi nữa cũng bái bái: Tôi xin lỗi Bồ-tát, tôi lầm!

Nói đến trang nghiêm Phật độ. Tôi ví dụ như lối tu bên Tịnh độ, muốn trang nghiêm tịnh độ thì phải làm sao? Trong kinh thường dạy muốn trang nghiêm tịnh độ thì hàng ngày phải niệm Phật, đến khi tâm mình tịnh rồi thì cõi Phật sẽ thanh tịnh, đó là nhân trang nghiêm tịnh độ. Có những vị Bồ-tát khác trang nghiêm tịnh độ bằng cách hoặc phát nguyện bố thí, hoặc phát nguyện nhẫn nhục, hoặc phát nguyện tinh tấn, mỗi hạnh tu là để trang nghiêm tịnh độ, khi thành Phật thì cõi nước phước đức viên mãn. Như vậy vô tình còn có chỗ để mình được phải không? Việc làm này còn có nghĩ tới chỗ mình được, mà còn nghĩ chỗ mình được thì còn ngã pháp, vì vậy Phật mới bảo rằng: Bồ-tát nếu khởi nghĩ ta sẽ trang nghiêm Phật độ ấy không phải Bồ-tát. Vì cớ sao? Như Lai nói trang nghiêm cõi Phật là không phải trang nghiêm, ấy mới gọi là trang nghiêm. Nghĩa là làm tất cả lợi ích chúng sanh mà không thấy có gì thật cả thì không trang nghiêm mà là trang nghiêm cho nên không phải trang nghiêm đó mới gọi là trang nghiêm. Cuối cùng đức Phật giải thích: Tu-bồ-đề, nếu Bồ-tát thông đạt được pháp vô ngã, Như Lai nói đó mới là chân thật Bồ-tát. Thấy được pháp vô ngã mới là chân thật Bồ-tát, còn chưa thấy được thì chưa phải thật Bồ-tát.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33398)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6604)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11369)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30452)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30473)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 8028)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12259)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12303)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11657)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12910)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34880)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9887)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52324)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10806)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10577)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10769)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10515)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13127)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16338)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21908)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9676)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7175)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10439)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12835)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12842)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16285)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16591)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13915)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16639)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12177)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13897)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14365)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9258)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11793)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11319)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16395)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14411)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16244)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12733)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12140)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11846)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15721)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11570)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14064)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12051)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12710)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15042)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11999)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13168)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14597)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20782)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13282)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 11011)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20764)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14420)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20457)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17709)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14075)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31914)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12069)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant