Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiểu sử đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V

10 Tháng Hai 201100:00(Xem: 9037)
Tiểu sử đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V


Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V ra đời vào thời điểm những cuộc nội chiến đang lan tràn khắp Tây Tạng. Năm 1618, vì các thuộc hạ của đức Đạt-lai Lạt-ma có những quan điểm bất đồng với vua Karma Phuntsok Namgyal nên ông đã tấn công Lhasa. Quân lực của ông ta đã giết hàng nghìn người kể cả Tăng sĩ ở chùa Sera và Drepung, những người còn sống sót phải tìm cách lánh nạn trong các ngôi chùa của phái Karmapa thuộc phía Nam thành phố. Phuntsok Namgyal đã dùng vũ lực buộc một số chùa nhỏ của phái Gelugpa phải đổi thành những trụ sở của phái Karmapa. Tsang được thiết lập các doanh trại quân đội để giám sát và khống chế các hoạt động của phái Gelugpa. Có lẽ điều tàn nhẫn nhất là sắc lệnh ngăn cấm việc tìm kiếm tái sanh của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ IV. 

Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V chào đời vào năm 1617 tại Chingwoi Taktse thuộc huyện Chongyas trên vùng biên giới phía Đông của Tsang. Cha của Ngài là một viên quan cao cấp thuộc tầng lớp quý tộc, ông cũng là môn đồ của phái Nyingmapa, có liên hệ với phái Sakya và dòng họ Phagmotru. Ngài được nhận diện vào năm 1619. Trong quá trình tiến hành những thủ tục thử nghiệm thông thường, cậu bé Ngawang Lobsang Gyatso đã nhận dạng những dụng cụ cá nhân thuộc về tiền kiếp của mình rất chính xác. Sau đó ít lâu, thân thế của Ngài được khẳng định thêm lần nữa bởi Lobsang Chokyi Gyaltsen, Viện trưởng của Tashi Lumpo, nhưng vì tình hình chính trị nên sự phát hiện ra Ngài và những vấn đềliên quan đều phải được giữ bí mật cho đến năm 1622. Trong khoảng thời gian ấy, Ngài được đưa đến Nakartse, gần Lhasa.


Năm 1620, quân Mông Cổ - những người đã bị vua Tsang đánh bại vào năm 1605 - đã giả dạng những du khách hành hương trở lại Tây Tạng. Họ tấn công vào các doanh trại quân đội của Tsang ở bên ngoài Lhasa, đánh bại quân của Tsang. Ngài Lobsang Chokyi của Tashi Lumpo và ngài Ganden Tripa - vị lãnh đạo Tăng đoàn phái Gelugpa đã đứng ra hòa giải giữa hai lực lượng, kết quả là quân lính Mông Cổ đồng ý rút binh, còn lực lượng của Tsang cũng phải rời khỏi các doanh trại của mình và hoàn trả lại các chùa chiền cho phái Gelugpa. Năm sau, vua Phuntsok Namgyal băng hà, nhờ vậy sự căng thẳng về quân sự giữa các tỉnh trung tâm Tây Tạng và Tsang có phần lắng dịu. Năm 1622, sự phát hiện và nhận dạng về đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V được tiết lộ và Ngài được tấn phong tại Drepung. Tuy nhiên, do tình hình bất ổn nên Ngài phải tiếp tục sống ẩn náu cho đến năm 1625, Sư phụ của Ngài là Lobsang Chokyi (sau này là Panchen Lama) mới làm lễ thế phát cho đức Đạt-lai Lạt-ma tí hon và cho Ngài nhập chúng tại Drepung.

Ngawang Gyatso được giáo dưỡng theo quy chế dành cho một Đạt-lai Lạt-ma bao gồm các kinh điển Phật giáo và cả về y học. Ngài cũng được học Kinh tạngMật tạng dưới sự hướng dẫn của vị Thầy là Lobsang Chokyi Gyaltsen. Ngài nghiên cứu về Mật tông của truyền thống Nyingmapa và lối thực hành thiền định của truyền thống này đã trở thành một nét đặc trưng nổi bật trong cuộc đời Ngài. Theo Huffmann thì một số lượng đáng kể trong các tác phẩm của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V về thuyết thần họcthần bí đều đề cập đến truyền thống Nyingmapa. Ngài tỏ ra là một học giả nổi tiếngtác phẩm của Ngài bằng tổng số tác phẩm của tất cả các Đạt-lai Lạt-ma trước. Các tác phẩm của Ngài bao gồm tiểu sử các nhân vật nổi tiếng trong thời đại của Ngài, về lịch sử Tây Tạng, các luận giải về thơ văn cổ điển Ấn Độ, về văn phạm, về thuật chiêm tinh và một phần lớn đề cập đến văn xuôi và thơ ca.

Những người đại diện cho phái Gelugpa cùng với Sonam Chospel, người đã trợ giúp cho thế lực của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V, đã tiếp cận những bộ lạc Oriat, Dzungar và Choskar của Mông Cổ, những người đã ủng hộ phái Gelugpa. Thủ lĩnh của họ là Gushri Khan thuộc bộ lạc Qoshot - một phần của liên bang Oriat. Ông ta đã lợi dụng cơ hội về những mối bất hòa giữa các bộ lạc Mông Cổ ở khu vực Kokonor để thiết lập một bộ máy chính quyền tại đó. Dưới sự lãnh đạo của ông, liên minh của các bộ lạc Mông Cổ đồng ý tham gia cuộc chiến tranh tôn giáo để ủng hộ đức Đạt-lai Lạt-ma.

Trong khi đó, quan nhiếp chính Desi Tsangpa đã kêu gọi sự hỗ trợ lực lượng từ các bộ lạc Mông Cổ Chogthu - những bộ tộc đã có mối liên minh lâu dài với các triều đại vua Tsang. Mười ngàn binh lính dưới sự chỉ huy của Arsalang đã được điều động đến để truy quét phái Gelugpa nhưng đã bị lực lượng của Gushri Khan ngăn lại. Cuối cùng, nhờ sự thuyết phục của Gushri Khan, Arsalang đã thay đổi kế hoạch của mình và chính ông ta đã tìm đến Lhasa để đảnh lễ trước mặt đức Đạt-lai Lạt-ma. Sau khi nhận được những lời khai thị từ đức Đạt-lai Lạt-ma, Arsalang đã phát nguyện không bao giờ làm tổn hại đến phái Gelugpa nữa. Sự chuyển hóa của Arsalang đã khiến cho cha của mình - vị tộc trưởng của bộ tộc Chogthu - hết sức phiền toái và ông ta đã ra lệnh giết Arsalang. Nhận thấy được tình hình bất ổn đó, Gushri Khan đã lãnh đạo binh lính của mình chống lại Chogthu và quét sạch hoàn toàn bộ tộc này, nhờ vậy mà triệt tiêu được mối đe dọa đối với phái Gelugpa. Vào năm 1638, Khan đã thực hiện một chuyến hành hương đến Lhasa để thọ nhận sự khai thị tâm linh từ đức Đạt-lai Lạt-ma. Để tán thán sự trợ giúp của Khan, trong một buổi lễ tại Lhasa, đức Đạt-lai Lạt-ma đã ban tặng cho Gushri Khan các tước hiệu: “Vua Tôn giáo”; “Bậc nắm giữ niềm tin Phật pháp”.

Phái Gelugpa đã biết được âm mưu giữa vua xứ Beri và vua Tsang muốn tiêu diệt phái Gelugpa. Điều này đã gây nên sự phản ứng lập tức từ phía Gushri Khan; ông đã mở cuộc hành quân chống lại âm mưu của cả hai triều đình. Theo Shakabpa thì đức Đạt-lai Lạt-ma tán thành biện pháp chống lại Beri; nhưng Ngài phản đối việc tấn công chống lại vua Tsang và có phần bình thường hóa mối quan hệ với họ. Ngài cũng lưu ý đến nguyên do của những rắc rối đã ập lên số phận của phái Gelugpa là do trong thời kỳ của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ IV đã làm mất mặt vua Tsang. Vị hầu cận chính của Ngài là Sonam Chospel đã cãi lại và dốc toàn tâm cho cuộc chiến. Cuối cùng, ông đã thay đổi sắc lệnh của đức Đạt-lai Lạt-ma với ngụ ý rằng nên tấn công luôn cả vua Tsang. Một năm sau, Gushri Khan đánh thắng Beri, hành quyết vua của họ và sau đó mở cuộc hành quân tấn công Tsang. Đức Đạt-lai Lạt-ma đã phản đối khi hay tin ấy, nhưng Sonam Chospel, lại một lần nữa bất chấp cả Sư Phụ của mình, đã cùng với binh lính lên đường để tham gia vào chiến trận. Giữa những sự kiện này, đức Đạt-lai Lạt-ma, Panchen Lama và Gushri Khan đứng về phía của họ; quan nhiếp chính Desi Tsangpa và Karmapa Lama từ một phía khác đã gởi các đại diện ngoại giao của mình đến tìm kiếm sự ủng hộ từ Hoàng đế Mãn Châu - người đã làm một cuộc đảo chính ở Trung Quốc và đang phát huy thế lực ở khu vực miền Đông Trung Quốc. Ông trả lời rằng, ông không thiên vị về phía nào hay trường phái nào, không chú ý tới màu y của họ; ông chỉ phục vụ để mở rộng mối quan hệ giữa Trung quốcTây Tạng.

Bấy giờ, đức Đạt-lai Lạt-ma được mời đến Shigatse, ở đó, Ngài đã nhận được sự kính trọng tột bực. Năm 1642, Ngài được tôn làm vua của xứ Tsang và Gushri Khan cũng chiếm một ngôi vị khác hơi thấp hơn. Sau đó, Gushri Khan được trao quyền thống trị toàn bộ Tây Tạng, vượt hơn cả đức Đạt-lai Lạt-ma. Sonam Chospel lên làm quan nhiếp chính, đảm nhiệm về sự thi hành chính trị, chuyển giao những vấn đề quan trọng lên đức Đạt-lai Lạt-ma khi cảm thấy cần thiết. Đức Đạt-lai Lạt-ma đã trở thành bậc lãnh đạo tinh thần lẫn quốc sự của nhân dân Tây Tạng. Về sau, Ngài tuyên bố rằng Lhasa là thủ đô chính thức của Tây Tạng và chính quyền Tây Tạng sẽ mang tên Ganden Phodrang, cùng tên với trú xứ của Ngài ở Drepung. Ngài cũng soạn thảo ra những bộ luật cho kỷ luật quần chúngchỉ định các bộ trưởng trong nhà nước và các cấp chính quyền địa phương. Gushri Khan duy trì như danh nghĩa vua của Tây Tạng, có tầm ảnh hưởng rất quan trọng và trở thành nhà bảo trợhộ vệ của đức Đạt-lai Lạt-ma. Mối quan hệ mới giữa bậc Đạo sư và người bảo hộ đã được chính thức thiết lập.

Sự phản kháng của phái Karmapa vẫn còn nóng bỏng nhưng liên tục bị Gushri Khan và Sonam Chospel ngăn chặn. Sau đó, Karma Tenkyang bị hành quyết và tất cả tinh thần kháng cự bị suy sụp. Vào những năm kế tiếp, nhiều chùa chiền thuộc phái Karmapa và Kagyupa bị bắt buộc phải đổi theo phái Gelugpa, kết quả là nhiều Tăng sĩ phái Mũ Đỏ đã tự đày ải mình đến những đất nước khác thuộc dãy Hy Mã Lạp Sơn để thoát khỏi quyền lực của đức Đạt-lai Lạt-ma. Một phe cánh của phái Karmapa Mũ Đỏ là Brugpa đã thiết lập được một nhà nước chính trị thần quyền ở Bhutan. Tuy nhiên, tổng quát lại, đức Đạt-lai Lạt-ma đã thực hiện lòng khoan dung trong những vấn đề này, thậm chí còn cho phép một số chùa thuộc truyền thống Karmapa được tái thiết lập. Ngài cũng cho phép phái Nyingmapa thiết lập Mindroling - một trung tâm giảng dạy thiền môn quan trọng ở ngay trung tâm Tây Tạng. Phái Bonpo và phái Nyingmapa hoạt động chủ yếu ở miền Đông Tây Tạng cũng được phép sinh hoạt mà không gặp bất cứ trở ngại nào, phái Sakya cũng thế. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng và những tiêu chuẩn của phái Gelugpa đã nhanh chóng tác động đến sự tổ chức và quản lý của các phái khác bởi lẽ Gelugpa tổ chức tốt hơn, đầy nhiệt huyết và mới mẻ nhất so với các phái khác.

Những kỹ năng lãnh đạo quốc gia của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V dựa trên nền tảng hướng đến một nền chính trị thần quyền. Tuy nhiên, Ngài vẫn được hầu hết nhân dân Tây Tạng kính trọng về năng lực tâm linh vĩ đại của Ngài và vì Ngài thiết lập vững chắc các luật lệ về tôn giáo. Trong khi nắm quyền lãnh đạo chính phủ, Ngài đã giao hầu hết quyền hành quốc sự cho quan nhiếp chính và dành hầu hết thời gian của mình cho sự nghiệp tâm linh. Điều này phần nào giải thích được về một số lượng tác phẩm đồ sộ của Ngài và Ngài nổi tiếng là một hành giả của các nghệ thuật Mật tông. Dưới sự lãnh đạo của Ngài, hình thức kiểm soát của quyền lực trung ương đã được thiết lậpduy trì cho đến ngày nay. Hệ thống lãnh đạo được chia đều giữa Tăng sĩ và cư sĩ. Có lẽ chỉ có một sai lầm thật sự trong suốt thời gian lãnh đạo của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V là đã để cho cuộc chiến với Bhutan xảy ra và đã bị thất bại hoàn toàn do sự thiếu chuẩn bị của nhân dân Tây Tạng và các đồng minh Mông Cổ. Sự liên hệ ngoại giao thành công nhất của đức Đạt-lai Lạt-ma là chuyến viếng thăm Trung Quốc sau khi nhận được những lời thỉnh cầu của hoàng đế Mãn Châu. Hoàng đế hy vọng rằng sự ảnh hưởng của đức Đạt-lai Lạt-ma sẽ ngăn chặn được quân Mông Cổ xâm lấn lãnh thổ Trung Hoa. Sau chuyến viếng thăm truyền thống Hồ Nước Thiêng Lhamo Latso ở chùa Chokhor Gyal, đức Đạt-lai Lạt-ma cùng với đoàn tùy tùng hùng hậu đã lên đường đi Trung Quốc. Dọc đường, Ngài đã nhận được sự chào đón nồng hậu của dân Tây TạngMông Cổ. Với mong muốn thể hiện trạng thái tự do của mình, Ngài yêu cầu cuộc gặp gỡ đầu tiên với Hoàng đế ở một nơi bên ngoài biên giới Trung Quốc. Một sự thỏa thuận đã được ấn định, Hoàng đế đã phản đối sự tham mưu của các cố vấn của mình và đi gặp đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Khothor, cách xa Bắc Kinh. Trong khi đó, tài liệu của Trung Quốc ghi lại rằng Hoàng đế Mãn Châu đã gặp đức Đạt-lai Lạt-ma trong một cuộc đi săn. Những cuộc gặp gỡ như thế cho thấy rằng Hoàng đế Mãn Châu đã có sự cân nhắc thận trọng khi thực hiện một cuộc hành trình chỉ vì mục đích duy nhất là để gặp gỡ đức Đạt-lai Lạt-ma. Đến Bắc Kinh, đức Đạt-lai Lạt-ma được mời về ở tại cung điện Màu Vàng, được xây dựng để đón tiếp Ngài. Ngài được thỉnh giảng cho người Trung QuốcMông Cổ, giúp họ xem xétđiều chỉnh lại một số thiền môn quy cũ trong các tự viện. Đó là một chuyến thăm viếng rất thành công. Cuộc gặp gỡ ngoại giao này đã mang lại sự lợi ích cho Trung Quốc vì có sự can thiệp của đức Đạt-lai Lạt-ma vào năm 1662 và trong những dịp khác nên hạn chế được những cuộc đột kích của quân Mông Cổ vào những thành phố vùng biên giới Trung Quốc.

Năm 1655, Gushri Khan băng hà, hai hoàng tử của ông chia nhau lãnh đạo Tây Tạng. Họ không mấy hứng thú trong việc lãnh đạo Tây Tạng và cũng không kế vị vua cha. Do vậy, dần dần, tất cả quyền lực được giao lại cho đức Đạt-lai Lạt-ma, kể cả quyền bổ nhiệm quan nhiếp chính.

Năm 1662, Panchen Lama viên tịch, thọ 91 tuổi. Tăng chúng của Tashi Lhunpo đã thỉnh cầu đức Đạt-lai Lạt-ma xác thực hiện thân tái sinh của Ngài. Sau một buổi cầu nguyện ở chùa Tashi Lhunpo, đức Đạt-lai Lạt-ma nhận ra một cậu bé ở vùng Tsang là tái sinh của ngài Panchen Lama và đặt tên cho cậu bé là Lobsang Yeshi. Sau đó, Lobsang Yeshe đã được thọ lễ xuất gia và được sự dạy dỗ của đức Đạt-lai Lạt-ma. Từ khi Lobsang Yeshe xuất gia và cho mãi đến sau này, ngôi vị của Panchen Lama luôn được đặt ở vị trí thứ hai – sau đức Đạt-lai Lạt-ma.

Đức Đạt-lai Lạt-ma tiếp tục củng cố mối quan hệ với các nước láng giềng. Nhiều hoàng tử và vua các nước đã đến viếng thăm Lhasa. Ngành thương mại cũng phát triển khi có những cuộc gặp gỡ của các học giả. Điều này dẫn đến việc phiên dịch các bản kinh Pali và Phạn văn, do các học giả Ấn Độ thực hiện. Một trong những thành tựu lớn nhất của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V là xây dựng cung điện Potala, công trình này được xây trên ngọn đồi Đỏ - nơi mà vị Quốc Vương thứ 33 của Tây Tạng – Songtsen Gampo – đã xây một pháo đài Đỏ ở đó. Tu viện Potala trở thành biểu tượng tâm linh vĩ đại của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V. Đó cũng là ngôi nhà chính của các Đạt-lai Lạt-ma và chính quyền Tây Tạng trong hơn 300 năm, là một trong những nơi quan trọng cho sự hành hương tâm linh và là một điển hình cho thiên tài văn hóa quốc gia của Tây Tạng. Bắt đầu từ năm 1645, công trình kéo dài đến gần 50 năm mới hoàn tất. Ngài viên tịch vào năm 1682, trong lúc Ngài đang nhập thất, thọ 65 tuổi. Sau khi Ngài viên tịch, tu viện Potala được tiếp tục xây dựng.

Ngài trở nên nổi tiếng vì những di sản bất hủ mà Ngài đã để lại. Dưới sự lãnh đạo của Ngài, Tây Tạng đã trở thành một quốc gia thống nhất và độc lập. Ngài đã tạo nên một hình thức chính quyền của Tây Tạng, soạn thảo những bộ luật, thiết lập hệ thống thu thuế, xây dựng hệ thống chăm sóc sức khỏe quốc giachương trình giáo dục quốc gia. Ngài cũng tổ chức lại Lễ Hội Đại cầu nguyện cho phù hợp với hình thức hiện tại. Là một nhà ngoại giao khéo léo, Ngài đã củng cố mối quan hệ của Tây Tạng với các nước láng giềng. Là một học giả uyên thâm, Ngài đã để lại một số lượng tác phẩm đồ sộ. Đặc biệt, nhân dân Tây Tạng đã xem Ngài như một bậc Thầy lãnh đạo tinh thần, người đã thể hiện được lòng khoan dung đối với các truyền thống tôn giáo khác. Một nhân vật mạnh mẽ như Ngài thật khó ai có thể sánh kịp và điều này đã được hậu thân của Ngài (đức DLLM thứ VI) chứng minh tất cả là sự thật; mặc dù, trên một số khía cạnh nào đó, đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI có cuộc sống nhiều bi kịch hơn đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V. ■

Biển Xanh

Phỏng dịch theo phần: “A History of Dalai Lamas within the Context of Their Times” của tác giả Ardy Verhaegen.

Nguồn: Tập San Pháp Luân 25


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8053)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con ngườisự nghiệp Lý Công Uẩn.
(Xem: 35675)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19781)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11765)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23267)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13416)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5865)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10665)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10401)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 10099)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20918)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6225)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6870)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8914)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 6036)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18178)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6383)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6766)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6576)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 13080)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5899)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7912)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10244)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7900)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9889)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9104)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6008)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24585)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36483)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7760)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11575)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 10075)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5254)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5448)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 10042)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7904)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9392)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8684)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46612)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6928)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12399)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5833)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14592)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13064)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12501)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14634)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12510)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10986)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9662)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16755)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8502)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5989)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9980)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6401)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11393)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7076)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46799)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13533)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8426)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6882)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9213)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6204)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6932)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17921)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18257)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15882)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6984)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31311)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9600)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7725)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21695)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34232)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33405)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14263)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35730)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 13027)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15798)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13708)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 33110)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26459)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41481)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40412)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 20100)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33745)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29711)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33758)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18919)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22793)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22528)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 49054)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 11997)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11184)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22576)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 18034)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15146)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22735)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 16016)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13134)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19770)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12089)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant