Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Tư: Đức Sơn Mang Bao Hành Trang

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15679)
Tắc thứ Tư: Đức Sơn Mang Bao Hành Trang

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 1

TẮC THỨ TƯ

ĐỨC SƠN MANG BAO HÀNH TRANG

 

THÙY: Dưới thanh niên bạch nhật, không cần phải vạch đông chỉ tây. Song tùy thời tiết nhân duyên vẫn cần phải tùy bệnh cho thuốc. Thử nói xem, buông thả hay giữ chặt cái nào hơn? Thử nêu ra xem sao.

CỬ: Đức Sơn đến nơi của Qui Sơn, ôm bao hành trang vào Pháp đường, đi từ tây qua đông rồi từ đông qua tây, nhìn quanh nói, “ Vô, vô,” rồi bỏ ra ngoài. Tuyết Đậu phê bình rằng “ Khám phá ra rồi.” Song khi Đức Sơn đến cổng lại nói, “Cũng không nên thô suất như thế.” Rồi lại đầy đủ uy nghi trở vào gặp Qui Sơn. Lúc Qui Sơn ngồi đó, Đức Sơn dơ tọa cụ lên nói, “Hòa thượng!” Qui Sơn toan chụp lấy phất trần, Đức Sơn bèn hét, rồi rũ áo bỏ đi ra.

Tuyết Đậu phê bình rằng, “Khám phá ra rồi.”

Đức Sơn quay lưng về Pháp đường, mang dép cỏ vào rồi bỏ đi. Tối đến Qui Sơn hiỏ vị thủ tòa, “ Người vừa rồi mới đến đâu rồi?” Thủ tòa nói, “Lúc ấy ông ta quay lưng về Pháp đường, mang dép cỏ vào rồi bỏ đi.” Qui Sơn nói, “ Người ấy sau này thế nào cũng lên đỉnh cao tự xây am cỏ mà tiếp tục bài Phật bang Tổ.”

Tuyết Đậu phê bình, “ Thêm sương lên tuyết.”

BÌNH: Nêu xong lời của Đức Sơn chỉ thêm ba chữ “điểm”. Quí vị có hiểu không? Có lúc xem một cọng cỏ như thân vàng một trượng sáu (của Phật), có lúc lại xem thân vàng một trượng sáu (của Phật) như một cọng cỏ.

Qui Sơn vốn là giảng sư, tại Tứ xuyên giảng Kinh Kim Cương[13]Theo lời dạy trong Kinh thì trong trí huệ đạt được sau khi chứng Kim Cương Dụ Định (Vajropamasamàdhi), người hành giả học uy nghi Phật trong một ngàn kiếp, tu tập Phật hạnh trong một ngàn kiếp, rồi sau đó mới thành Phật .Thế mà bọn ma ở phương nam lại nói, “Tâm chính là Phật”. Đức Sơn lấy làm công phẫn, gánh theo sớ sao đi về phương nam để dẹp tan bọn ma này. Thấy thầy ta công phẫn như thế cũng đủ hiểu thầy ta là một tay mãnh liệt như thế nào.

Lúc mới đến Phong Châu, Đức Sơn gặp một bà lão bán bánh rán bên lề đường, mới đặt sớ sao xuống, định mua vài món ăn điểm tâm. Bà lão hỏi, “ Thầy mang theo cái gì vậy?” Đức Sơn nói, “ Kim Cương Kinh Sớ Sao.” Bà lão nói, “Tôi có một câu hỏi, nếu thầy trả lời được xin biếu không bánh cho thầy điểm tâm, còn nếu không trả lời được thì đi chổ khác mà mua”. Đức Sơn nói, “ Cứ hỏi đi”.Bà lão nói, “ Kinh Kim Cương nói: quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc,chẳng hay thượng tọa muốn điểm tâm cái nào đây?” Đức Sơn không nói năng gì được. Bà lão bèn chỉ cho đến tham khán Long Đàm.

Vừa bước qua ngưỡng cửa Đức Sơn đã nói, “ Lâu nay nghe tiếng Long Đàm, song khi đến đây chẳng thấy hồ (đàm) mà cũng chẳng thấy rồng(long) hiện.Long Đàm hòa thượng từ sau bình phong bước ra, nói,” Ông quả thật đến Long Đàm”. Đức Sơn bèn cúi lạy rồi lui. Đêm ấy vào phòng của Long Đàm đứng hầu mãi đến khuya. Long Đàm nói, “Tại sao Thầy chưa lui đi?” Đức Sơn chào rồi vạch màn bước ra, thầy bên ngoài trời tối bèn quay vào nói, “ Bên ngoài tối quá”. Long Đàm bèn thắp đèn giấy rồi đưa cho Đức Sơn, Đức Sơn vừa tiếp lấy, Long Đàm thổi tắt đèn. Đức Sơn hoát nhiên đại ngộ.Lập tức cúi lạy. Long Đàm nói, “Ông thấy được gì mà ông cúi lạy vậy?” Đức Sơn nói, “Từ rày trở đi kẻ hèn này không còn giám nghi ngờ những gì các lão hòa thượng trong thiên hạ nói nữa.”

Hôm sau Long Đàm thượng đường nói, “Trong các ông có một gã răng như rừng kiếm, miệng như bát máu, dù có lấy gậy đập đi nữa cũng không quay đầu. Ngày sau gã sẽ lên đỉnh cao mà lập đạo ta ở đó.” Đức Sơn bèn đem sớ sao ra trước Pháp đường, dơ cao ngọn đuốc lên nói, “Nghiên cứu các biện luận huyền ảo, thật ra cũng chẳng khác gì đặt một sợi lông vào hư không; xét tận các quan kiện cốt yếu, lại chỉ giống như nhỏ một giọt nước vào thung lũng lớn.” Rồi đốt hết đi.

Sau đó nghe nói giáo lý của Qui Sơn đang thịnh, mới đến nơi để gặp Qui Sơn với tư cách là người thông hiểu Thiền. Không buồn cởi hành trang, Đức Sơn bước thẳng vào Pháp đường, đi từ tây qua đông rồi từ đông qua tây, nhìn chung quanh nói, “Vô, vô”. Rồi bỏ ra ngoài. Thử nói xem ý của Thầy ta là thế nào? Phải chăng thầy ta điên? Nhiều người hiểu lầm bảo rằng đó là cách kiến lập của Đức Sơn, song không đúng chút nào. Thầy Đức Sơn nầy mới thật là kỳ đặc, cho nên mới có lời nói, “ Xuất chúng phải là tay hảo hán, thắng địch là chuyện sư tử con. Tuyển Phật mà không có mắt này, dù cho ngàn năm làm được chi?” Đến chổ này hẳn phải là một người thông thạo lắm mới nhìn thấy được. Tại sao vậy? Phật Pháp chẳng có gì là phức tạp, làm sao có thể đem tình trần đến mà so đo được? Đó chính là tâm cơ của Đức Sơn, sao mà có lắm lao nhọc như thế . Cho nên Huyền Sa mới nói, “Cho dù là có giống như bóng trăng trong hồ thu, tiếng chuông trong đêm vắng, khua sóng chẳng làm tan, lúc nào gõ là kêu, song vẫn là việc của bờ bên này sinh tử. Đến chổ này rồi thì không có được mất,thị phi, cũng chẳng có kỳ đặc kỳ diệu. Đã thế thì làm sao hiểu được việc-Đức Sơn đi từ tây qua đông rồi lại từ đông qua tây. Thử nói xem ý của thầy ta là gì?

Lão hán Qui Sơn chẳng them đếm xỉa Đức Sơn nếu như không phải là người như Qui Sơn hẳn thế nào cũng bị Đức Sơn bẻ gãy rồi. Nhìn xem Qui Sơn là tay thông thạo, chỉ ngồi yên đó mà xem thành bại. Nếu như Qui Sơn không nhìn thấu được ngọn gió thổi đến kia, làm sao mà thầy ta có thể đương đầu với vấn đề như thế được. Tuyết Đậu phê bình một lời rằng, “ Khám phá ra rồi.” Đây giồng như thể một thanh sắt. Tăng chúng gọi như vậy là, “trước ngữ”, tuy ở hai bên song lại không trụ bên nào cả. Phải hiểu lời thầy ta nói, “khám phá ra rồi” như thế nào? Chỗ nào là chỗ khám phá? Thử nói xem khám phá Đức Sơn hay là khám phá Qui Sơn?

Đức Sơn bèn bỏ ra ngoài, đến cổng tự viện bèn tự nhủ, “ Không nên thô suất như thế”. Đức Sơn muốn thố lộ tim gan ngũ tạng để cùng Qui Sơn “ pháp chiến” một trận, cho nên mới lại đầy đủ uy nghi trở vào Qui Sơn một lần nữa. Lúc Qui Sơn ngồi đó, Đức Sơn dơ tọa cụ lên nói, “ Hòa thượng!” Qui Sơn toan với lấy phất trần, Đức Sơn bèn hét rồi rũ áo bỏ đi. Kỳ đặc hết sức!

Nhiều người trong tăng chúng nói rằng Qui Sơn sợ Đức Sơn. Nói vậy thì có gì là nhằm nhò? Qui Sơn chẳng hề vội vã. Cho nên cổ nhân nói, “ Người có trí hơn chim thì bắt được chim, có trí hơn thú thì bắt được thú, có trí hơn người thì bắt được người. Ai tham thấu được vấn đề này của Thiền, thì cho dù là tất cả cây cỏ rừng rậm người vật hoa quả sâm la vạn tượng trong trời đất cùng một lúc hét lên, gã cũng chẳng buồn màng tới. Dù cho có lật đổ giường thiền, hét tan đại chúng, gã cũng chẳng buồn màng tới. Cao như trời , rộng như đất. Nếu như mà Qui Sơn không có khả năng bẻ gãy miệng lưỡi của tất cả thiên hạ thì lúc ấy hẳn việc thử thách Đức Sơn đâm ra khó khăn lắm. Nếu như Qui Sơn không phải là thiện tri thức của một ngàn năm trăm người, thì đến lúc đó hẳn đã không phân giải được. Song Qui Sơn là loại người trù tính kế hoạch trong trướng mà đạt được chiến thắng ngoài ngàn dặm.

Đức Sơn quay lưng về Thiền Đường, mang dép cỏ rồi bỏ đi.Thử nói xem, ý của thầy ta là gì? Đức Sơn thắng hay bại? Còn Qui Sơn như thế là thắng hay bại? Tuyết Đậu phê bình, “ Khám pháp ra rồi” Đó là thầy ta nỗ lực để nhìn thấu hoa ngôn cùng cực của cổ nhân.Như vậy thầy ta mới đúng là kỳ đặc. Tuyết Đậu nói, “khám phá ra rồi”, hai lần, chia thành ba đoạn. Lúc ấy mới giải rõ công án. Tuyết Đậu cũng giống như kẻ bàng quan phán đoán hai người kia.

Sau đó lão hán Qui Sơn vẫn cứ tà tà, mãi tối đến mới hỏi vị thủ tòa, “Cái người vừa rồi mới tới ở đâu rồi?” Thủ tòa nói, “ Lúc ấy ông ta quay lưng về Pháp đường, mang dép cỏ vào rồi bỏ đi.” Qui Sơn nói, “Người ấy sau này thế nào cũng lên đỉnh cao tự xây am cỏ mà tiếp tục bài Phật bang tổ.” Thử nói xem ý của thầy ta như thế nào? Lão hán Qui Sơn không phải là hảo tâm đâu. Đức Sơn sau này tha hồ mà bài Phật bang Tổ, đánh mưa đánh gió, song thầy ta vẫn chẳng rời khỏi hang động của mình. Nghề nghiệp một đời của Đức Sơn bị Qui Sơn nhìn thấu cả. Ở đây có thể nói rằng Qui Sơn thụ ký cho Đức Sơn được chăng? May có thể nói là đầm lớn giấu được núi, chồn khắc phục được báo? May thay, những cái này chẳng có gì nhằm nhò đến vấn đề cả.

Tuyết Đậu hiểu cái cốt yếu của công án này,cho nên mới dám phán đoán cho người khác nói rằng, “ Thêm sương lên tuyết”. Nêu một lần nữa cho người khác xem. Nếu như ai thấy được, người ấy thật là ngang hàng với Qui Sơn, Đức Sơn và Tuyết Đạu. Nếu như không thấy được, cũng chớ có gượng ép giải thích theo ý riêng.

TỤNG:

Một khám phá

Hai khám phá

Thêm sương lên tuyết,

Phi Kỵ tướng quân vào trại địch,

Còn được an toàn có mấy kẻ?

Vội đi qua,

Không buông tha,

Trên đỉnh cô đơn ngồi trong cỏ.

Ôi!

BÌNH: Tuyết Đậu tụng một trăm tắc công án, từng tắc một thắp hương mà nêu. Cho nên những bài tụng ấy rất được lưu hành trên đời. Thầy ta rành văn chương , thông hiểu công án. Bao giờ cũng suy nghĩ chín chắn rồi mới hạ bút. Tại sao lại thế? Rồng rắn dễ phân, lừa tăng lại khó. Tuyết Đậu tham thấu nhân duyên này, viết ba câu phê bình ở những chỗ gay go khó hiểu nhất. Rồi toát yếu lại mà làm tụng.

“Thêm sương trên tuyết” gần như rơi vào nguy hiểm. Còn Đức Sơn thì như thế nào? Giống như Phi ky Tướng Quân vào trại địch, tức là Lý Quảng thiện xạ đượcvua phong làm Phi Ký Tướng Quân. Sau khi đánh giặc, bị người Phiên bắt, toan cho ngựa xé.Quảng giả chết. Nửa đường len lén mở mắt, thấy tên lính canh trong tay có cung tên, bèn tung mình đoạt cung tên trong tay tên lính canh trong tay có cung tên, bèn tung mình đoạt cung tên trong tay tên lính canh, bắn chết tên lính canh. Rồi đoạt ngựa mà tẩu thoát. Bọn giặc tiếp tục đuổi theo, bị Quảng giương cung bắn chết một tên , giặc sợ quá bèn lui. Gã hán tử này có khả năng sống lại từ cõi chết. Tuyết Đậu dẫn tích này trong tụng để so sánh với việc Đức Sơn trở lại gặp Qui Sơn, giống như thể Lý Quảng lại được trở về Hán, và lại cũng nhảy ra lại như xưa.

Nhìn xem người xưa thấy rốt ráo, hành rốt ráo dụng rốt ráo; quả thậtanh hùng. Phải có cái tài giết người không chớp mắt thì mới có thể lập tức thành Phật được. Chỉ có người lập tức thành Phật, giết người không chớp mắt mới có phần tự do tự tại. Như người bây giờ bị hỏi, mới đấu thì còn có vẻ khí khái của tăng sĩ, song chỉ hỏi dồn một chút, là lập tức bụng mềm chân nhuyễn, lúng ta lúng túng, thiếu hẳn sự liên tục. Cho nên cổ nhân nói,”Tương tục là vấn đề rất khó”. Hãy nhìn Đức Sơn Qui Sơn Hành xử, phải chăng kiến giải của họ luộm thuộm vụng về?Còn được an toàn có mấy kẻ? Vội đi qua” Đức Sơn hét bỏ đi, giống như Lý Quảng bày kế đoạt cung sau khi bị bắt, bắn chết tên lính gác người Phiên, mà trốn thoát khỏi trại giặc. Tuyết Đậu tụng chỗ này quả là có công phu.

Đức Sơn quay lưng về Pháp đường, mang dép cỏ vào rồi bỏ đi. Có người nào bảo thầy ta thắng thế, đâu có biết rằng lão hán (Qui Sơn) này vẫn như trước đâu có chịu buông tha thầy ta? Tuyết Đậu nói. “Không buông thá”. Tối đến Qui Sơn hỏi vị thủ tòa, “Người vừa rồi mới đến đâu rồi?”Thủ tòa nói, “ Lúc ấy ông ta quay lưng về Pháp đường, mang dép cỏ vào rồi bỏ đi.” Qui sơn nói. Người ấy sau này thế nào cũng lên đỉnh cao tự xây am cỏ mà tiếp tục bài Phật bang Tổ.” Qui Sơn chịu buông tha Đức Sơn bao giờ? Dù sao Đức Sơn cũng kỳ đặc hết sức. Đến chỗ này tại sao Tuyết Đậu lại nói, “ Trên đỉnh cô đơn ngồi trong cỏ?” Xong rồi lại hét? Thử nói xem, ý của thầy ta là ở chổ nào? Tham Thiền thêm ba mươi năm nữa đi.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12531)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14116)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10860)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10531)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11205)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12013)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13169)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13661)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33684)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11349)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12944)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13069)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11643)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17910)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11453)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11871)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11521)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18989)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12566)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11352)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13157)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15790)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11832)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11706)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12785)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12643)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13979)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13008)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12962)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13309)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12785)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12720)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11767)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11744)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12352)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12397)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19839)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11979)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12001)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16898)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12685)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15074)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16133)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12900)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12256)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11932)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11937)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13166)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16521)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13240)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12507)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11835)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19874)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11172)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11272)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10411)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11108)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10983)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10052)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11762)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant