Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Hai Mươi Tám: Chư Thánh Của Niết Bàn Hòa Thượng

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15500)
Tắc thứ Hai Mươi Tám: Chư Thánh Của Niết Bàn Hòa Thượng

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 3

TẮC THỨ HAI MƯƠI TÁM

CHƯ THÁNH CỦA NIẾT BÀN HÒA THƯỢNG

 

CỬ: Nam Tuyền đến tham kiến Niết Bàn Hòa Thượng ở núi Bách Trượng. Bách Trượng hỏi, “Chư thánh từ xưa còn có Pháp nào chưa nói cho thiên hạ không?” Nam Tuyền nói, “Có.” Bách Trượng nói, “Thế nào là Pháp chưa nói cho thiên hạ?” Nam Tuyền nói, “ Không phải tâm, không phải Phật, không phải vật.” Bách Trượng nói, “Như thế là nói rồi.” Nam Tuyền nói, “Kẻ hèn này thì như thế, còn hòa thượng thì như thế nào?” Bách Trượng nói, “Tôi đã không phải là bậc thiện tri thức, làm sao biết là đã nói hay chưa nói.” Nam Tuyền nói, “Kẻ hèn này không hiểu.” Bách Trượng nói, “Tôi đã hết sức nói cho ông rồi.”

BÌNH: Đến chỗ này chẳng cần “là tâm” hay “ không phải là tâm”, hoặc “không phải là tâm” hay “không không phải là tâm.” Tuy từ đầu đến chân không có một sợi lông mày, song như thế mà vẫn còn hơn. Thọ Thiền Sư gọi “ là tâm” là lối giải thích trực tiếp, “ không phải là tâm” là lối giải thích gián tiếp, đây chính là Niết Bàn Hòa Thượng Pháp Chính Thiền Sư. Hồi xưa làm viện chủ Tây Đường tại Bách Trượng. Sau lập tự viện giảng Phật pháp.

Lúc ấy Nam Tuyền đã gặp Mã Tổ rồi, sau đó đang đi nơi để quyết trạch (Phật pháp). Bách Trượng đặt câu hỏi này kể cũng hết sức khó đáp. Hỏi rằng, “Chư thánh từ xưa có còn Pháp nào chưa nói cho thiên hạ không?” Nếu như là sơn tăng tôi, thì tôi đã bịt taibỏ ra rồi. Hãy nhìn xem cơn lúng túng của lão hán này. Nếu như la một chuyên gia mà thấy thầy ta hỏi như thế hẳn đã nhìn thấu thầy ta rồi. Nam Tuyền chỉ dựa vào chỗ thấy của mình cho nên nói, “ Có.” Quả thật là càn rỡ.[12]

Bạch Trượng lấy lầm lẫn ra đối với lầm lẫn, nói tiếp rằng, “ Thế nào là Pháp chưa nói cho thiên hạ?” Nam Tuyền nói, “Không phải tâm, không phải Phật, không phải vật.” Lão này tham ngắm trăng trên trời, mà đánh mất viên ngọc trong lòng bàn tay. Bách Trượng nói, “Như thế là nói rồi.” Đáng tiếc thầy ta đã nói toạc cả ra cho Nam Tuyền rồi. Lúc ấy phải cứ nhắm lưng thầy ta mà lấy gậy nện cho thầy biết thế nào là đau đớn.

Tuy là như thế, song các ông thử nói xem, chỗ nào là chỗ thầy ta nói? Theo chỗ thấy của Nam Tuyền thì không phải tâm, không phải Phật, không phải vật, chưa từng bao giờ được nói ra. Xin hỏi các ông, tại sao Bách Trượng lại nói, “như thế là nói rồi”? Trong lời nói của Nam Tuyền lại vô tung vô ích. Nếu bảo rằng thầy ta không nói, thì tại sao Nam Tuyền lại nói như thế? Nam Tuyền lại là người biết quyền biến cho nên mới dồn Bách Trượng mà nói tiếp rằng, “Kẻ hèn này thì như thế, còn hòa thượng thì như thế nào?” Nếu như là người khác khó mà tránh khỏi lúng túng không biết phải làm sao. Bách Trượng vốn là tay chuyên gia, chỗ trả lời của thấy ta quả thật là kỳ đặc. Nói ngay rằng, “ Tôi đã không phải là bậc thiện tri thức, làm sao biết là đã nói hay chưa nói?” Nam Tuyền bèn nói rằng mình không hiểu. Thầy ta quả thực hiểu song lại nói là không hiểu. Đây chẳng phải là không hiểu thực sự. Bách Trượng nói, “Tôi đã hết sức nói cho ông rồi.” Song thử nói xem, chỗ nào là chỗ thầy nói?

Nếu như là hai kẻ nghịch bùn đất thì cả hai hẳn đã lem luốc rồi. Nếu như cả hai đều là những chuyên gia, ắt giống như hai tấm gương trên giá. Kỳ thực thoạt đầu cả hai đều là chuyên gia, sau đó cả hai lại cùng buông bỏ. Nếu như các ông là những người có mắt, các ông phải thử thách họ một cách rõ ràng. Song thử nói xem, phải thử thách họ bằng cách nào? Xin xem tụng của Tuyết Đậu.

TỤNG

Tổ Phật xưa nay chẳng vì người,

Nạp tăng xưa nay sánh vai đi.

Gương sang trên khung ảnh biệt dị,

Quay cả về nam nhìn bắc đẩu.

Bắc đẩu nghiêng,

Không nơi tìm.

Nhếch được mũi lên mất luôn miệng.

BÌNH: Đức Thích Ca Mâu Ni xuất thế bốn mươi chín năm chưa từng nói lấy một chữ. Bắt đầu từ Quang Diệu độ cho đến cuối cùng ở song Bạt Đề, giữa khoảng đó chưa từng nói một chữ. Thử nói xem, nói như thế là có nói hay không có nói? Hiện giờ tràn Long Cung đầy Hải Tàng, tại sao lại là không nói? Há không nghe Từ Sơn Chủ nói, “Chư Phật không xuất thế , bốn mươi chín năm thuyết. Đạt Ma không từng đến, Thiếu Lâm có diệu quyết.” Lại nói, “Chư Phật chưa từng xuất thế mà cũng chẳng có Pháp gì cho thiên hạ cả. Chư Phật chỉ quán tâm của chúng sinh rồi tùy cơ mà cho thuốc hợp với bệnh. Do đó mà chúng taba thừa và mười hai phần giáo.”

Kỳ thực từ xưa đến nay Phật, Tổ chưa từng nói gì cho người ta cả. Cái việc không vì người này, chúng ta phải tham một cách hết sức cận kẻ. Sư núi tôi thường nói rằng, dù cho tôi có nói them một câu ngọt như mật đi nữa, song lúc quan sát kỹ lại thì chính là độc dược. Nếu như ngay giây phút thiên hạ mở miệng các ông sơ gậy lên nhắm ngay lưng họ mà khệnh, rồi đuổi họ ra, thì đó mới là giúp người một cách thân thiết.

“ Nạp tăng xưa nay sánh vai đi.” Đến bất cứ chỗ nào, đúng họ cũng hỏi không đúng họ cũng hỏi , hỏi Phật hỏi Tổ, hỏi hướng thượng hỏi hướng hạ. Tuy là thế, song nếu chưa đạt được đến mức độ này, thì vẫn chưa được chút gì cả.” Gương sang trên khung ảnh biệt dị.” Chỉ cần một câu này thôi là cũng có thể phân biện minh bạch. Cổ nhân nói” Vạn tượng là sâm la chỉ là dấu ấn của một Pháp.” Lại nói, “ Sâm la và vạn tượng đều viên mãn ở trong ấy cả.”

Thần Tú Đại Sư nói, “Thân là cội bồ đề, tâm là đài gương sang, phải luôn luôn lau chùi, đừng để nhiễm bụi trần.” Ngũ Tổ (Hoằng Nhẫn) bảo rằng Thần Tú hãy vẫn còn ở ngoài cửa. Tuyết Đậu nói như thế, các ông thử nói xem, thầy ta ở trong hay ở ngoài cửa? Các ông ai cũng có một tấm gương xưa. Sâm la vạn tượng dài ngắn vuông tròn tất cả đều hiển hiện trong ấy. Nếu như các ông nắm vào cái dài ngắn mà hiểu, ắt là các ông mãi mãi rờ rẫm không ra. Cho nên Tuyết Đậu mới nói, “ Gương sáng trên khung ảnh biệt dị.”

Cho nên các ông “quay cả về Nam nhìn Bắc đẩu.” Đã quay về hướng nam tại làm sao còn nhìn bắc đẩu? Nếu hiểu được như vậy mới thấy được chỗ tương kiến giữa Bách Trượng và Nam Tuyền. Hai dòng này tụng việc Bách Trượng dồn (Nam Tuyền) mãi. Bách Trượng nói, “Tôi đã không phải là bậc thiện tri thức, làm sao biết là đã nói hay chưa?” Đến chỗ này tụng của Tuyết Đậu rơi vào nước chết. Sự thiên hạ hiểu lầm, thầy ta lại nêu lên rằng, “Bắc đẩu nghiêng, không nơi tìm. Nhếch được mũi lên mất luôn miệng.” Nhếch được miệng lên thì lại mất luôn mũi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12534)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14116)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10862)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10532)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11207)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12014)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13170)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13662)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33684)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11350)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12946)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13072)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11644)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17910)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11453)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11873)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11521)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18992)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12567)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11352)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13158)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15794)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11833)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11709)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12786)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12644)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13981)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13009)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12963)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13309)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12785)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12721)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11767)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11745)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12352)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12398)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19840)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11979)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12001)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16900)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12686)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15075)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16135)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12901)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12259)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11934)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11940)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13167)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16521)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13241)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12509)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11837)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19875)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11175)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11273)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10412)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11109)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10983)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10053)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11763)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant