Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tắc thứ Năm Mươi Hai: Cầu Đá Của Triệu Châu

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15526)
Tắc thứ Năm Mươi Hai: Cầu Đá Của Triệu Châu

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 6

TẮC THỨ NĂM MƯƠI HAI

CẦU ĐÁ CỦA TRIỆU CHÂU

 

CỬ: Có ông tăng hỏi Triệu Châu, “Lâu nay nghe tiếng cầu đá của Triệu Châu, đến nơi lại chỉ thấy chiếc cầu khỉ.” Triệu Châu nói, “Ông chỉ thấy cầu khỉ, không thấy cầu đá.” Ông tăng nói, “ Thế nào là cầu đá?” Triệu Châu nói, “Để lừa qua để ngựa qua.”

BÌNH; Nơi của Triệu Châu có chiếc cầu đá do Lý Ưng (thời Hậu Hán) xây. Cho đến nay vẫn nổi danh trong thiên hạ. Cầu khỉ là một chiếc cầu nhỏ chỉ gồm một khúc cây bắc qua dòng nước. Ông tăng kia cố tình giảm uy phong của Triệu Châu cho nên mới hỏi, “ Lâu nay nghe tiếng cầu đá của Triệu Châu, đến nơi lại chỉ thấy chiếc cầu khỉ.” Triệu Châu bèn nói, “Ông chỉ thấy cầu khỉ mà không thấy cầu đá.” Là dựa vào câu hỏi của ông tăng kia. Thoạt nghe có vẻ như đàm thoại bình thường, song Triệu Châu lại dùng để câu ông tăng. Ông tăng này quả nhiên mắc câu, cho nên bèn hỏi tiếp, “ Thế nào là cầu đá?” Triệu Châu nói, “Để lừa qua, để ngựa qua.” Quả thật là có chỗ xuất thân trong lời nói ấy. Triệu Châu không giống như Lâm Tế với Đức Sơn sữ dụng gậy và hét, mà chỉ dùng ngôn cú để sát hoạt mà thôi.

Công án này nhìn kỹ chỉ tương tự như một thứ đấu cơ phong, song tuy vậy cũng hết sức là khó hiểu thấu.

Một hôm cùng vị thủ tòa nhìn cầu đá kia, Triệu Châu hỏi, “ Ai xây cầu này vậy?” Thủ tòa nói, Lý Ưng xây. Triệu Châu nói, “ Lúc xây bắt đầu ở chỗ nào?” Thủ tòa không trả lời được. Triệu Châu nói, “Ông luôn luôn nói về cầu đá, đến khi hỏi ông cầu xây bắt đầu từ chỗ nào ông lại không biết.” Một hôm Triệu Châu đang quét sân, có ông tăng hỏi, “Hòa thượng là bậc thiện tri thức thì tại sao lại có bụi?” Triệu Châu nói, “Bụi là từ bên ngoài tới.” Ông tăng lại hỏi, “Thanh tịnh già lam, tại sao lại có bụi?” Triệu Châu nói, “Chỉ có một chút thôi.”

Có ông tăng hỏi, ”Đạo là gì?” Triệu Châu nói, “Ở bên ngoài tường kia kìa.” Ông tăng hỏi, “Không hỏi đạo đó, mà hỏi đại Đạo kia.” Triệu Châu nói, “Đại đạo dẫn tới tận Trường An.”

Triệu Châu ưa dùng căn cơ này, thầy ta thường vì người ở những chỗ an ổn bình thường. Lại chẳng bao giờ phạm tay vào mũi nhọn, tự nhiên lừng lững vời vợi, sử dụng cơ duyên này một cách hết sức vi diệu. Tuyết Đậu tụng rằng:

TỤNG

Không lập xa vời đạo mới cao,

Xuống biển còn phải câu rùa lớn.

Nực cười lão Quán Khê cùng thời,

Biết nói”phóng tên” nhọc công thôi.

BÌNH: “ Không lập xa vời đạo mới cao.” Tuyết Đậu chỗ bình thường vì người của Triệu Châu. Triệu Châu chẳng lập huyền diệu, chẳng nói xa vời. Thầy ta không giống với đa số người ở các nơi thường bảo rằng phải đả phá hư không, đập nát Tu Di,làm bay bụi dưới đáy biển, gây sóng trên đỉnh Tu Di, mới xứng đáng được gọi là Đạo của Tổ Sư. Cho nên Tuyết Đậu mới nói, “Không lập xa vời đạo mới cao.” Những người khác có thể đứng cao như vách đá vạn trượng để mà hiển dương Phật Pháp một cách đặc biệt linh nghiệm. Song tuy rằng những người ấy cao vời lừng lững, cũng không bằng được (Triệu Châu) chẳng lập xa vời, mà cứ bình thường tự nhiên xoay chuyển sự vật một cách êm suốt. Triệu Châu đúng là không lập mà tự lập, không đứng trên cao mà tự cao. Chỉ khi nào cơ duyên vượt ra ngoài những cái cao vời kia chúng ta mới có thể thấy cái huyền diệu được.

Cho nên Tuyết Đậu nói, ”Xuống biển còn phải câu rùa lớn.” Hãy nhìn bậc tông sư có mắt kia (Triệu Châu) chỉ cần nhàn nhã dạy một lời, dùng một cơ biến. Thầy ta không câu tôm, sò, ốc hến mà câu ngay rùa lớn. Quả thật là một tay chuyên gia. Câu này là để giải minh công án.

“Nực cười lão Quán Khê cùng thời.” Có ông tăng hỏi Quán Khê, “Từ lâu nghe nói Quán Khê, nay đến nơi thì lại chỉ thấy có cái rãnh nước.” Quán Khê nói, “Ông chỉ thấy rãnh nước mà không thấy Quán Khê.” Ông tăng hỏi, “ Thế nào là Quán Khê?” Quán Khê nói, “ Nhanh như mũi tên phóng ra.”

Có ông tăng hỏi Hoàng Long, “Lâu nay nghe danh Hoàng Long, đến nơi thì chỉ thấy có con rắn chiếu hoa.” Hoàng Long nói, “Ông chỉ thấy con rắn chiếu hoa mà không thấy Hoàng Long.” Ông tăng hỏi, “Thế nào là Hoàng Long?” Hoàng Long nói, “Lướt đi.” Ông tăng nói, “Thế lỡ hốt nhiên gặp Kim Xí Điểu đến thì như thế nào?” Hoàng Long nói, “Tính mệnh khó mà bảo toàn.” Ông tăng nói, “Như thế tức là bị chim ăn mất.” Hoàng Long nói, “Cám ơn thầy cúng dường.”

Đây đều là những trường hợp lập (những lời dạy) cao vời. Đúng thì có đúng, song không khỏi phí sức. Rốt cuộc chẳng bằng được cái dụng bình thường của Triệu Châu. Cho nên Tuyết Đậu nói, “ biết nói ‘phóng tên’ nhọc công thôi”. Tạm gác Quán Khê và Hoàng Long sang một bên, các ông phải hiểu như thế nào khi Triệu Châu nói, “Để lừa qua, để ngựa qua?” Thử phân biện xem.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12491)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14093)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10841)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10510)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11167)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11976)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13103)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13609)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33629)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11318)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12889)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13028)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11598)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17863)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11407)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11812)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11464)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18951)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12520)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11305)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13123)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15731)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11794)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11678)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12735)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12616)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13929)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12955)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12907)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13267)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12738)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12662)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11710)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11700)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12311)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12371)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19807)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11941)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11976)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16867)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12657)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15050)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16091)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12860)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12208)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11904)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11914)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13135)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16491)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13219)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12467)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11796)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19823)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11135)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11240)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10392)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11072)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10951)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10018)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11727)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant