Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tắc thứ Sáu Mươi: Cây Gậy Của Vân Môn

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 16320)
Tắc thứ Sáu Mươi: Cây Gậy Của Vân Môn

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 6

TẮC THỨ SÁU MƯƠI

CÂY GẬY CỦA VÂN MÔN

 

THÙY: Chư Phật chúng sinh vốn chẳng dị biệt, núi sông và mình há có sai khác? Tại sao lại có sự phân chia thành hai như thế? Dù cho các ông có thể xoay chuyển thoại đầu, cắt đứt câu nói, chỉ buông tha thôi cũng không đủ. Nếu như các ông không buông bỏ, cả trời đất này cũng chẳng đáng để nắm giữ. Song thế nào là chỗ để xoay chuyển thoại đầu? Thử nêu lên xem.

CỬ: Vân Môn đưa gậy ra dạy chúng rằng, “Cây gậy đã hóa thành rồng, nuốt trọn cả trời đất rồi. Sơn hà đại địa, còn đâu mà có nữa?”

BÌNH: Như câu nói của Vân Môn rằng “cây gậy đã hóa thành rồng, nuốt trọn cả trời đất rồi. Sơn hà đại địa còn đâu mà có nữa?” Nếu như các ông bảo là có thì các ông mù, nếu như các ông bảo là không thì các ông chết. Các ông có thấy chỗ vì người của Vân Môn chăng? Trả lại cây gậy cho tôi đi. Người bây giờ không hiểu được chỗ độc lộ của Vân Môn. Lại đi bảo rằng Vân Môn dựa vào sắc mà minh giải tâm, nương vào vật mà xiển minh lý. Thích Ca Mâu Ni thuyết Pháp bốn mươi chín năm, không thể không biết lối nghị luận này. Tại sao lại còn cần phải niêm hoa để Ca Diếp mỉm cười? Lão hán này lại gây lúng túng đi nói rằng, “Ta có chính pháp nhãn tạng, niết bàn diệu tâm, nay trao lại cho Ma Ha Ca Diếp.” Tại sao lại phải đơn truyền tâm ấn? Các ông đã là khách trong môn hạ của Tổ sư, song có hiểu được việc đơn truyền tâm ấn này không?

Nếu như trong lòng các ông mà có một vật, lập tức sơn hà đại địa hiển hiện, còn nếu trong lòng không chấp một vật gì thì bên ngoài chẳng có tơ hào gì cả. Còn gì mà phải nói đến nào lý với trí đối tượng rõ ràng cùng sự hiểu biết thần diệu. Tại sao vậy? Bởi vì hiểu một là hiểu tất cả, rõ một là rõ tất cả. Trường Sa nói, “ Những người học đạo không biết cái Thật, chỉ cứ lo đi nhận cái thần thức, cái gốc sinh tử vô lượng kiếp, kẻ mê gọi là bổn lai nhân.” Nếu như các ông hốt nhiên đả phá được ấm giới, thân tâm nhất như, ngoài thân không có gì cả, các ông vẫn chưa đạt được nữa kia. Nói gì đến việc dựa vào sắc để minh giải tâm, nương vào vật để xiển minh lý?

Cổ nhân nói, “Một hạt bụi vừa khởi lên, cả vũ trụ đã được bao gồm trong đó.” Song thử nói xem, một hạt bụi nào vậy? Nếu như các ông biết được hạt bụi này thì các ông biết được cây gậy của Vân Môn. Ngay khi Vân Môn vừa dơ gậy lên, chúng ta đã thấy ngay được các diệu dụng của thầy ta. Nói như vậy cũng đã là dây dưa rồi, hà huống đến chuyện hóa thành rồng. Khánh Tàng Chủ nói, “ Năm ngàn bốn mươi tám quyển, há từng có nói gì sao?” Vân Môn mỗi lần dơ gậy ra là niêm lên được cả toàn cơ đại dụng, vì người một cách sống động thay.

Ba Tiêu dạy chúng rằng, “Lỗ mũi của nạp tăng ở cả trên cây gậy này.” Vĩnh Gia nói, “ Không phải chỉ là hình thức bề ngoài, mà đúng thật là dấu vết của Như Lai bảo trượng.” Xưa dưới thời Phật Nhiên Đăng, Phật Thích Ca xõa tóc ra để che bùn cho Phật Nhiên Đăng. Phật Nhiên Đăng nói, “Nên xây một tự viện ở chỗ này.” Có một thiên tử bèn cắm một cọng cỏ xuống nói rằng, “ Tự viện đã được xây xong.” Các ông thử cho tôi biết xem, chuyện này ở đâu mà có vậy?

Tổ sư nói, “Đầu gậy chứng đắc, dưới hét đảm đương.” Song thử nói xem. Đảm đương cái gì cơ? Hốt nhiên có người hỏi, “Thế nào là gậy?” Các ông sẽ lộn nhào sao? Sẽ vỗ tay sao? Tất cả những thứ này chỉ là trò ma quỉ, may mà chẳng có gì là nhằm nhò cả. Tuyết Đậu tụng rằng:

TỤNG

Cây gậy nuốt trọn trời đất,

Nói mãi hoa đào trên sóng.

Kẻ cháy đuôi không nói nắm mây bắt sương,

Kẻ hụt hơi sao phải thất kinh hồn vía?

Nêu lên rồi,

Có nghe không?

Cân phải tiêu sái tự tại

Chớ nên bối rối phân vân.

Bảy mươi hai gậy vẫn tha thứ,

Một trăm năm mươi khó tha ông.

Sư bỗng dơ gậy rồi hạ tòa,

Đại chúng lập tức tẩu tán.

BÌNH: Vân Môn vì người một cách vòng vo, Tuyết Đậu vì người một cách trực tiếp. Cho nên Tuyết Đậu mới gạt bỏ cái chuyên hóa thành rồng , cho là chẳng đáng nói, chỉ có việc “ cây gậy nuốt trọn trời đất mà thôi.” Ý của Tuyết Đậu chỉ là sao để thiên hạ đừng chấp voà thiên kiến. Thầy ta tiếp tục nói, “ Nói mãi hoa đào trên sóng.” Không còn cần phải hóa thành rồng nữa. Ở Ngu Môn có ba đợt sóng, cứ mỗi độ đến tháng ba khi hoa đào nở và sóng dâng, những con cá nào có thể bơi ngược dòng nước rồi vượt qua các lớp sóng thì sẽ hóa thành rồng. Tuyết Đậu nói dù có hóa thành rồng đi nữa cũng chỉ là những lời nói vô ích mà thôi.

“Kẻ cháy đuôi không nói nắm mây bắt sương.” Khi cá vượt qua Vũ Môn tự nhiên có lửa trời đốt chày đuôi chúng; cá nắm mây bắt sương mà đi. Tuyết Đậu ý muốn nói rằng dù cho là hóa thành rồng đi nữa cũng không phải là việc nắm mây bắt sương. “ Kẻ hụt hơi sao phải thất kinh hồn vía?” Thanh Lương Sớ nói trong lời tựa rằng, “Dù cho là bậc Bồ Tát tích hạnh đi nữa cũng cứ hụt hơi ở Vũ Môn.” Ý của Thanh Lương muốn nói rằng Hoa Nghiêm cảnh giới không phải là chỗ mà tiểu đức tiểu trí có thể đạt đến được. Giống như những con cá muốn vượt qua Long Môn, những con vượt không được bị điểm lên đỉnh đầu mà quay về, rồi bị mắc cạn nơi vũng nước trên bãi cát, nằm đó mà thở dốc. Tuyết Đậu ý muốn nói rằng những con cá bị điểm lên đầu đuổi về ắt là đều thất kinh hồn vía.

“Nêu lên rồi, có nghe không?” Tuyết Đậu lại bỏ thêm cước chú, trong một lúc quét sạch cả cho các ông. Cho nên các ông cần phải “tiêu sái tự tại, cho nên bối rối phân vân.” Nếu như các ông vẫn tiếp tục bối rối phân vân, thì các ông mất đi cây gậy. “Bảy mươi hai gậy vẫn tha thứ, một trăm năm mươi khó tha ông.” Tuyết Đậu đã vì các ông mà bỏ nặng theo nhẹ. Cổ nhân nói, “Bảy mươi hai gậy biến thành một trăm năm mươi.” Người thời nay hiểu lầm chỉ lo đi tính toán con số, nói rằng, “Lẽ ra phải là bảy mươi lăm gậy chứ tại sao lại chỉ có bảy mươi hai?” Đâu có biết rằng ý của cổ nhân nằm ở ngoài ngôn ngữ. Cho nên mới có câu nói rằng, “Việc này không nằm trong ngôn ngữ.” Tuyết Đậu sở dĩ dẫn dụng việc này là cốt để cho người đời sau đừng xuyên tạc. Dù cho các ông có tiêu sái tự tại thực đi nữa, các ông vẫn cứ đáng ăn bảy mươi hai gậy như thường. Đây vẫn là tha thứ cho các ông một cách dễ dàng. Cho dù là các ông không được như vậy, cũng khó tha cho các ông một trăm năm mươi gậy.

Tuyết Đậu kể như đã tụng xong rồi, lại vẫn dơ gậy lên mà làm lại một lần nữa. Tuy là thế, song thầy ta vẫn không phải là một kẻ có máu dưới da.
 
 

[1] “Đầu vàng” ngụ ý chỉ đức Phật.

[2] “Mắt xanh” (bích nhan) ngụ ý chỉ ngài Bồ Đề Đạt Ma.

[3] Về tiểu sử xin xem thêm trong Cảnh Đức Truyền Đăng lục, cùng một dịch giả, sẽ xuất bản.

[4] Ngụ ý nói ngài Bồ Đề Đạt Ma.

[5] Tức là viên ngọc quí có thể thực hiện tất cả các ước nguyện của người tín đồ.

[6] Ý nói Tổ Bồ Đề Đạt Ma từ Tây Trúc qua.

[7] Nạp tử có nghĩa là tăng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12499)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14097)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10843)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10510)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11170)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11979)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13107)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13610)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33631)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11323)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12891)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13033)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11602)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17864)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11408)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11812)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11468)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18957)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12523)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11305)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13126)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15731)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11797)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11683)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12736)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12622)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13933)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12957)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12911)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13273)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12739)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12667)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11717)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11712)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12316)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12374)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19808)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11949)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11981)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16868)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12660)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15051)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16100)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12861)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12210)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11905)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11914)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13141)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16494)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13222)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12476)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11806)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19829)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11138)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11245)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10395)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11080)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10953)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10026)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11736)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant