Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Ba Mươi Sáu: Trường Sa Một Hôm Đi Chơi Núi

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15612)
Tắc thứ Ba Mươi Sáu: Trường Sa Một Hôm Đi Chơi Núi

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 4

TẮC THỨ BA MƯƠI SÁU

TRƯỜNG SA MỘT HÔM ĐI CHƠI NÚI

 

CỬ: Một hôm Trường Sa đi chơi núi. Lúc trở về đến cổng vị thủ tòa hỏi, “Hòa thượng đi đâu về thế?” Trường Sa nói, “Đi chơi núi.” Thủ tòa nói, “Hòa thượng đi đến những chỗ nào?” Trường Sa nói, “Đi theo mùi cỏ thơm, về theo vết hoa rụng.” Thủ tòa nói, “ Có vẻ giống mùa xuân hết sức.” Thủ tòa nói, “ Có vẻ giống mùa xuân hết sức.” Trường Sa nói, “ Hơn cả sương thu thấm hoa sen.” Tuyết Đậu bình rằng, “Cám ơn đã trả lời.”

BÌNH: Trường Sa Lộc Uyển Chiêu Hiền Đại Sư vốn là truyền thừa của Nam Tuyền, và là người đồng thời với Triệu Châu và Tử Hồ. Vốn là người có cơ phong mẫn tiệp. Nếu như có người hỏi về giáo lý là thầy ta giảng giáo lý, muốn tụng là thầy ta tụng. Nếu như các ông muốn gặp thầy ta với tư cách là một chuyên gia thì thầy ta sẽ gặp các ông với tư cách là một chuyên gia.

Ngưỡng Sơn thường được coi là người có cơ phong mẫn tiếp vào bậc nhất. Một hôm, lúc đang cùng Trường Sa ngắm trăng, Ngưõng Sơn chỉ mặt trăng nói, “ Ai cũng có cái đó cả , có điều người ta không dùng được nó mà thôi.” Trường Sa nói, “Đúng vậy. Thế tôi nhờ thầy dùng được không?” Ngưỡng Sơn nói, “ Thầy thử tự dùng xem sao.” Trường Sa đá cho Ngưỡng Sơn một cái ngã nhoài. Ngưỡng Sơn đứng dậy nói, “Sư thúc giống y như một con cọp vậy đó.” Từ đó trở đi thiên hạ gọi Trường Sa là “con cọp Cảnh Sầm.”

Một hôm Trường Sa đi chơi núi về, vị thủ tòa cũng là người trong chúng hội của Trường Sa, hỏi, “Hòa thượng đi đâu về thế?” Trường Sa nói, “Đi chơi núi.” Thủ tòa nói, “Hòa thượng đi đến những chỗ nào?” Trường Sa nói, “Đi theo mùi cỏ thơm, về theo vết hoa rụng.” Phải là người cắt đứt được (sự phân biệt của cả thiên hạ khắp) mười phương thì mới có thể nói như thế được. Cổ nhân xuất nhập chưa từng bao giờ mà lại không lấy điều ấy làm tâm niệm. Nhìn xem họ chủ khách thay đổi vị trí, đương đầu với cơ duyên một cách trực tiếp, chẳng hề để lộ yếu điểm của nhau. Trường Sa đã đi chơi núi, cớ sao thủ tòa lại còn hỏi, “Hòa thượng đi đến những chỗ nào?” Nếu như những người học Thiền ngày nay hẳn đã nói, “Đi đỉnh Giáp Sơn về”. Nhìn xem cổ nhân không có chút tơ hào so đo, cũng chẳng có chỗ chấp trước, cho nên mới nói, “Đi theo mùi cỏ thơm, về theo vết hoa rụng.” Thủ tòa bèn theo ý của Trường Sa cho nên mới nói,” Có vẻ giống mùa xuân hết sức.” Trường Sa nói, “Hơn cả sương thu thấm hoa sen.” Tuyết Đậu bèn nói, “Cám ơn đã trả lời.” Chính là lời cuối cùng. Câu nói của Tuyết Đậu cũng rơi vào cả hai bên, song rốt cuộc lại chẳng ở bên nào cả.

Xưa có Trương Chuyết Tú Tài đọc Thiên Phật Danh Kinh, rồi hỏi, “ Trăm ngàn chư Phật , chỉ mới nghe danh hiệu, song chưa hiểu họ ở quốc độ nào, còn hóa chúng sinh hay không.” Trường Sa nói, “ Sau khi Thôi Hiệu đề thơ trên Hoàn Hạc Lâu rồi, tú tài đã từng đề thơ bao giờ chưa?” Trương Chuyết nói, “ Chưa”. Trường Sa nói, “ Lúc nào tú tài rảnh nho nhỏ đề một bài cũng được.” Cách vì người khác của “con cọp Cảnh Sầm” này thì như châu ngọc xoay vần; Thầy ta luôn luôn muốn cho thiên hạ hiểu trực tiếp. Tụng rằng:

TỤNG

Đại địa không hạt bụi,

Người nào mắt không mở?

Đi theo mùi cỏ thơm,

Về theo vết hoa rụng.

Hạc gầy đậu cây lành,

Khỉ điên hú đài xưa.

Trường Sa vô hạn ý.

Ôi!

BÌNH: Thử phân biện đen trắng xem công án này giống hay khác với công án sau đây: Ngưỡng Sơn hỏi ông tăng, “ Thầy mới từ đâu đến vậy?” Ông tăng nói, “Lô Sơn”. Ngưỡng Sơn nói, “Thầy đã từng lên Ngũ Lão Phong chưa?” Ông tăng đáp, “Chưa!” Ngưỡng Sơn nói, “Như thế là thầy chưa từng bao giờ đi chơi núi cả.” Đến chổ này cần phải dứt bặt cơ quan quên hết ý thức, không còn lưu lại chút dấu vết nào của sơn hà đại địa, thảo mộc người vật. Nếu vẫn chưa được như vậy thì cổ nhân gọi là vẫn còn ở trong cảnh giới thắng diệu.

Há không nghe Vân Môn nói, “Dù cho là không thấy chút tơ hào lầm lẫn nào trong sơn hà đại địa, vẫn cứ còn một chuyện cũ. Không thấy tất cả các sắc , chỉ mới là một nửa vấn đề. Vẫn phải biết rằng có lúc toàn thể vấn đề được nêu lên, chỉ còn một lời hướng thượng, lúc ấy các ông mới có thể ngồi yên được sao?” Nếu như các ông hiểu thấu được thì như xưa núi lại là núi, sông lại là sông, mỗi cái trụ nơi cương vị, mỗi cái nằm trong tư thế của mình. Lúc ấy các ông giống như thể một người mù với cái phách lớn. Triệu Châu nói, “ Gà gáy sớm, tỉnh dậy buồn thay vẫn lậu đậu. Chẳng quần mà cũng chẳng áo đơn, vỏn vẹn một chiếc cà sa thôi. Quần không trôn khố không lỗ, trên đầu dăm ba vết tro xanh. Tu hành vốn để cứu độ người, ai dè lại thành gã hát rong!’

Nếu như người ta có thể thực sự đạt đến mức độ này, thì có mắt ai mà lại không mở? Dù cho có thất điên bát đảo đi nữa, tất cả mọi nơi đều là cảnh giới này, đều là thời tiết này. Mười phương không vách,bốn phía cũng không cửa. Cho nên Trường Sa mới nói, “Đi theo mùi cỏ thơm, về theo vết hoa rụng.” Tuyết Đậu quả là khéo léo, chỉ cần bên phải thêm một câu, bên trái thêm một câu, giống như thể một bài thơ. “Hạc gầy đậu cây lành, khỉ điên hú đài xưa.” Tuyết Đậu dẫn đến chỗ này, tự cảm thấy lậu đậu, hốt nhiên nói, “Trường Sa vô hạn ý. Ôi!” Giống như thể nằm mộng rồi tỉnh. Tuy Tuyết Đậu có hét một tiếng, song vẫn chưa giải quyết hết vấn đề. Nếu gặp sư núi tôi đây hẳn đã không như thế. “Trường sa vô hạn ý, đào đất chôn sâu thêm.”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12528)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14115)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10858)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10528)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11202)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12009)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13167)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13660)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33680)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11344)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12939)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13067)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11643)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17905)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11452)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11870)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11519)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18987)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12562)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11351)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13156)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15787)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11830)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11706)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12782)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12641)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13978)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13005)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12958)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13305)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12784)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12715)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11762)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11742)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12346)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12394)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19834)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11975)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11999)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16896)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12681)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15070)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16130)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12898)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12251)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11926)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11934)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13164)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16517)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13237)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12504)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11832)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19870)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11169)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11268)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10408)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11104)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10978)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10044)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11759)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant