Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

12.06. Phẩm Đàn Na Ba La Mật Đa Thứ Sáu

30 Tháng Tư 201000:00(Xem: 8123)
12.06. Phẩm Đàn Na Ba La Mật Đa  Thứ Sáu
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999


XII
PHÁP HỘI BỒ TÁT TẠNG
THỨ MƯỜI HAI

Hán Dịch: Nhà Đường, Pháp Sư Huyền Trang
Việt Dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

06. Phẩm Đàn Na Ba La Mật Đa
Thứ Sáu


 Đức Phật phán tiếp : « Nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào là đại Bồ TátVô thượng Bồ đềchuyên cần tu tập các Ba la mật đa thật hành Bồ Tát hạnh ?
 Nầy Xá Lơị Phất ! Đại Bồ Tát thật hành Bồ Tát hạnh tức là chuyên cần tu học sáu Ba la mật đa thì gọi là thật hành Bồ Tát hạnh.

 Những gì gọi là sáu Ba la mật đa ? Đó là Đàn na Ba la mật đa, Thi la Ba la mật đa, Sằn đề Ba la mật đa, Tỳ lê gia Ba la mật đa, Tịnh lư Ba la mật đaBát nhã Ba la mật đa.

 Đại Bồ Tát y theo sáu Ba la mật đa ấy mà thật hành đạo Bồ Tát.
 Lại nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào gọi là đại Bồ Tát y theo Đàn na Ba la mật đa để thật hành Bồ Tát hạnh ?

 Lúc đại Bồ Tát thật hành Đàn na Ba la mật đa cứu độ chúng sanh, đại Bồ Tátchúng sanh mà làm thí chủ. Nếu có Sa Môn hay Bà La Môn đến cầu xin, Bồ Tát đều thí cho, cần ăn cho thức ăn, cần uống cho món uống, những vật ngon của lạ đều thí cho hết. Hoặc có người cầu xin y phục, xe cộ, hương hoa, giường ghế, chiếu mền, thuốc men, đèn đuốc, âm nhạc, tôi tớ, vàng bạc, châu báu, voi ngựa, rừng vườn, suối ao, trai gái, thê thiếp, kho tàng, hoặc có kẻ cầu xin đồn dùng của Luân Vương, hoặc cầu xin tay chưn, đầu mắt, máu thịt, xương tủy. Bồ Tát đều có thể vui mừng thí cho.

 Nầy Xá Lợi Phất ! Nói tóm lại đại Bồ Tát thật hành đại thí chỉ thấy người đến cầu tất cả vật cần dùngthế gian đều thí cho cả.

 Nầy Xá Lơị Phất ! Đại Bồ Tát thật hành Đàn na Ba la mật đa lại có mười pháp bố thí thanh tịnh :

 Một là đại Bồ Tát không có cầu tài vật bất chánhbố thí.
 Hai là đại Bồ Tát chẳng bứt ngặt chúng sanhbố thí.
 Ba là đại Bồ Tát chẳng đe dọa chúng sanhbố thí.
 Bốn là đại Bồ Tát chẳng từ chối chỗ yêu cầubố thí.
 Năm là đại Bồ Tát chẳng xem xét diện mạo mà bố thí.
 Sáu là đại Bồ Tát đối với chúng sanh lòng không ý tưởng sai biệtbố thí.
 Bảy là đại Bồ Tát không có lòng tham áibố thí.
 Tám là đại Bồ Tát không có lòng giận hờn mà bố thí.
 Chín là đại Bồ Tát chẳng cầu quốc độbố thí.
 Mười là đại Bồ Tát đối với chúng sanh chẳng khinh miệt xem họ là phước điềnbố thí.

 Đây gọi là mười đại Bồ Tát thật hành mười pháp bố thí thanh tịnh để được viên mãn Đàn na Ba la mật vậy.

 Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Đàn Ba la mật đa, đại Bồ Tát lại có mười pháp bố thí thanh tịnh :

 Một là đại Bồ Tát chẳng hủy bỏ nghiệp báobố thí.
 Hai là đại Bồ Tát chẳng có tà ý mà bố thí.
 Ba là đại Bồ Tát đều tin hiểu mà bố thí.
 Bốn là đại Bồ Tát không chán mệt mà bố thí.
 Năm là đại Bồ Tát không biểu hiện tướng dạng mà bố thí.
 Sáu là đại Bồ Tát mạnh mẽ phấn khởi mà bố thí.
 Bảy là đại Bồ Tát không có ăn nănbố thí.
 Tám là đại Bồ Tát đối với người trì giới chẳng thiên kính mà bố thí.
 Chín là đại Bồ Tát đối với người phạm giới chẳng khinh bỉ mà bố thí.
 Mười là đại Bồ Tát thật hành mười pháp thanh tịnh bố thí để được viên mãn Đàn na Ba la mật vậy.

 Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Đàn na Ba la mật đa, đại Bồ Tát lại có mười pháp thanh tịnh bố thí :

 Một là đại Bồ Tát chẳng mắng nhiếcbố thí.
 Hai là đại Bồ Tát chẳng xây lưngbố thí.
 Ba là đại Bồ Tát chẳng có không thanh tịnhbố thí.
 Bốn là đại Bồ Tát chẳng hiện tướng giận dữbố thí.
 Năm là đại Bồ Tát chẳng hiện tướng ghét mà bố thí.
 Sáu là đại Bồ Tát chẳng hiện tướng giận hờn mà bố thí.
 Bảy là đại Bồ Tát ân cần trịnh trọngbố thí.
 Tám là đại Bồ Tát tự tay cho mà bố thí.
 Chín là đại Bồ Tát chẳng có hứa nhiều cho ít mà bố thí.
 Mười là đại Bồ Tát chẳng cầu đời saubố thí.

 Đây là đại Bồ Tát thật hành mười pháp thanh tịnh bố thí để được viên mãn Đàn na Ba la mật đa vậy.

 Lại nầy Xá Lơị Phất ! Lúc thật hành Đàn na Ba la mật đa, đại Bồ Tát lại có mười pháp thanh tịnh bố thí :

 Một là đại Bồ Tát luôn thường bố thí.
 Hai là đại Bồ Tát không lệ thuộcbố thí.
 Ba là đại Bồ Tát không sai biệtbố thí.
 Bốn là đại Bồ Tát không duyên sự khác mà bố thí.
 Năm là đại Bồ Tát không kém yếu mà bố thí.
 Sáu là đại Bồ Tát không mong sắc đẹp của cảitự tạibố thí.
 Bảy là đại Bồ Tát không cầu sanh các cõi trờibố thí.
 Tám là đại Bồ Tát không hồi hướng bực Thanh Văn, Độc Giácbố thí.
 Chín là đại Bồ Tát không vì người thông minh chê tráchbố thí.
 Mười là đại Bồ Tát không hề chẳng hồi hướng Nhứt thiết tríbố thí.

 Đây là đại Bồ Tát thật hành mười pháp bố thí thanh tịnh để được viên mãn Đàn na Ba la mật đa vậy.

 Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Đàn na Ba la mật đa, đại Bồ Tát lại có mười pháp bố thí thanh tịnh : đó là trong mười pháp bố thí đã nói ở trên ra khỏi hữu vi mà chứng được vô vi.

 Lại nầy Xá Lợi PhấtĐại Bồ Tát bố thí như vậy có thể được mười công đức khen ngợi lợi ích thượng diệu :

 Một là do bố thí món ăn mà đại Bồ Tát được sống lâu biện tài sắc đẹp an vui và khỏe mạnh.
 Hai là do bố thí món uống mà đại Bồ Tát được rời hẳn phiền não khát ái.
 Ba là do bố thí các loại xe cộ mà đại Bồ Tát được tất cả những sự lợi ích an vui.
 Bốn là do bố thí y phụcđại Bồ Tát được thành tựu đức tàm quý, da dẻ sạch sẽ như màu hoàng kim.
 Năm là do bố thí hương hoađại Bồ Tát được tịnh giới, học rộng và các chánh định cùng thánh hạnh.
 Sáu là do bố thí hương bột hương xoa mà đại Bồ Tát được khắp thân thể thơm sạch và thánh hạnh.
 Bảy là do bố thí món ăn thượng vịđại Bồ Tát được tướng hảo đại trượng phu « cam lộ thượng vị ».
 Tám là do bố thí phòng nhà mà đại Bồ Tát được cùng các chúng sanh làm nhà, làm cửa, làm cứu hộ, làm chỗ ở, làm chỗ về, làm chỗ đến cho họ.
 Chín là do thương người bịnh mà bố thí thuốc men nên đại Bồ Tát được không già bịnh chết, đầy đủ diệu dược cam lộ bất tử.
 Mười là do bố thí tất cả đồ cần dùng để sống mà Bồ Tát cảm được đầy đủ đồ dùng và trọn nên tất cả pháp Bồ đề phần.

 Đây gọi là vì Vô thượng Bồ đề, đại Bồ Tát tu hành bố thí ấy mà được mười công đức xưng tán lợi ích thượng diệu để viên mãn Đàn na Ba la mật đa vậy.

 Lại nầy Xá Lợi PhấtBố thí như vậy, đại Bồ Tát lại được mười công đức thượng diệu :

 Một là do bố thí đèn sáng mà Bồ Tát được ngũ nhãn thanh tịnh của Phật.
 Hai là do bố thí âm nhạcBồ Tát được thiên nhĩ thanh tịnh của Phật.
 Ba là do bố thí vàng bạc châu báuBồ Tát được đầy đủ ba mươi hai tướng hảo đại trượng phu.
 Bốn là do bố thí tạp bửu và hoa thơm đẹp mà Bồ Tát được đầy đủ tám mươi tùy hình hảo.
 Năm là do bố thí các loại voi ngựa xe cộ mà Bồ Tát được đồ chúng quyến thuộc rộng lớn đông nhiều.
 Sáu là do bố thí vườn rừng nhà mát mà Bồ Tát được thành tựu chánh định giải thoát chánh chỉ chánh quán.
 Bảy là do bồ thí kho tàng lúa gạo của cảiBồ Tát được viên thành tạng pháp bảo.
 Tám là do bố thí tôi trai, tớ gái mà Bồ Tát viên mãn tự tại, thân tâm nhàn vui.
 Chín là do bố thí con cái, thê thiếp mà Bồ Tát được viên mãn Vô thượng Bồ đề đáng yêu đáng thích vừa ý muốn.
 Mười là do Bố thí vương vị quách thành mà Bồ Tát được viên mãn Nhứt thiết chủng trí.

 Bố thí như vậy gọi là nhiếp thọ mười công đức thượng diệu để được viên mãn Đàn na Ba la mật đa vậy.

 Lai nầy Xá Lơị Phất ! Bố thí như vậy đại Bồ Tát lại được mười công đức thượng diệu.

 Một là do bố thí ngũ dục thượng diệu mà Bồ Tát được thanh tịnh giới định huệ giải thoátgiải thoát tri kiến.
 Hai là do bố thí đồ chơi tốt mà Bồ Tát được thanh tịnh du hí pháp lạc.
 Ba là do bố thí chưn mà Bồ Tát được viên mãn pháp nghĩa đi đến tòa Bồ đề.
 Bốn là do bố thí tay mà Bồ Tát được viên mãn pháp thanh tịnh cứu tế chúng sanh.
 Năm là do bố thí tai, mũi mà Bồ Tát được viên mãn thành tựu các căn.
 Sáu là do bố thí chi tiết nơi thân mà Bồ Tát được thân Phật oai nghiêm thanh tịnh vô nhiễm.
 Bảy là do bố thí mắt mà Bồ Tát được pháp nhãn thanh tịnh vô ngại.
 Tám là do bố thí máu thịt mà Bồ Tát được thân kiên cố nhiếp trì trưởng dưỡng thiện căn chơn thiệt cho tất cả chúng sanh.
 Chín là do bố thí tủy não mà Bồ Tát được thân kim cương viên mãn chẳng thể phá hoại.
 Mười là do bố thí đầu mà đại Bồ Tát được Nhứt thiết chủng trí vô thượng tối thượng.

 Nầy Xá Lợi Phất ! Vì Vô thượng Bồ đềđại Bồ Tát thật hành bố thí ấy, nhiếp thọ tướng mạo ấy, được viên mãn Phật pháp và các công đức xưng tán lợi ích thượng diệu, đều để viên thành Đàn na Ba la mật vậy.

 Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Đàn na Ba la mật đa, đại Bồ Tát có tánh thông thái, trí huệ rất sâu, dùng vô lượng phương tiệnbố thí. Đem của cải thế gian mà cầu thánh tài Vô thượng Chánh Giác. Đem của sanh tử mà cầu của tiên cam lộ bất tử. Đem của hư ngụy chẳng bền chắc mà cầu của thánh chơn thiệt bền chắc. Vì cớ ấy mà Bồ Tát thật hành bố thí rộng lớn.

 Nầy Xá Lợi PhấtĐại Bồ Tát vì cầu Vô thượng Bồ đềđại Niết Bàn, lúc đem tài vật thế gian để bố thí, thì tất cả tài vật tốt thế gian đều xả thí hết. Tại sao ? Vì y theo Vô thượng Đẳng chánh giác vậy.

 Nầy Xá Lợi Phất! Như nhà nông thế gian nương sức trâu cày bừa ruộng đất xong thì gieo giống, do đó nhà nông ấy lần lượt được vàng bạc châu báu y phục tốt đẹp. Tại sao? Vì trong đời không có tài vật nào bằng lúa gạo vậy.

 Cũng vậy, đại Bồ Tát có lúc có phần nương tài vật thế gian mà chứng được Chánh đẳng Chánh giác.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Như bò sữa có lúc ăn cỏ khô, có lúc ăn cỏ ướt, có lúc uống nước lạnh, có lúc uống nước ấm mà có thể sản xuất sữa, bơ, sanh tô, thục tô và đề hồ.

 Cũng vậy, nương Vô thượng Chánh giác thật hành thế gian bố thí, đại Bồ Tát có thể được báo Chuyển Luân Vương, hoặc báo Đế ThíchPhạm Vương. Do được ba quả báo ấy mà bực Thập địa Bồ Tát mau được viên mãn mười trí lực, bốn sở úy của Như Lai. Do sự bố thí ấy mà đủ ngàn công đức phát khởi mười tám pháp Phật bất cộng, đủ ngàn công đức phát khởi sáu mươi thứ âm thanh vi diệu viên mãn, đủ trăm công đức phát khởi mỗi mỗi tướng hảo đại trượng phu, đủ hai trăm công đức phát khởi tướng vô tướng đảnh, đủ quá bá bội công đức thành tựu tướng loa kế, đủ quá câu chi trăm ngàn lần hơn công đức thành tựu tướng bốn mươi chiếc răng trắng đều do bố thí mà mau phát khởi viên mãn.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Lúc thật hành Đàn na Ba la mật, đối với người xin, đại Bồ Tát sanh tâm đại từbố thí. Tâm đại từ ấy nối tiếp phát khởi như hằng hà sa mới được thành mãn, trong ấy không xen dứt Phật chánh định.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai an trụ chánh định ấy có thể từ mỗi lỗ chưn lông phát xuất trăm chánh định như sông Hằng chảy mãi luôn tự tại. Vì thế nên biết rằng đức Như Lai có tất cả thần thông biến hóa đều do thật hành bố thí mà nên.

 Nầy Xá Lợi Phất! Bao nhiêu Phật phápđức Như Lai có, đều do ngày trước lúc tu Bồ Tát hạnh làm việc bố thí tài vật thế gian.

 Đây gọi là đại Bồ Tát lúc thật hành bố thí vì cầu cam lộ bất tử, vì cầu thánh tài bền vững, vì cầu Vô thượng Bồ đề, vì cầu đại Niết Bàn. Như vậy có nghĩa là đại Bồ Tát nương thế gian tài vật để bố thí mà hiệp đúng với Đàn na Ba la mật chứng Vô thượng Bồ đề vậy.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát lúc thật hành Đàn na Ba la mậtvô lượng tướng dạng nay đức Như Lai sẽ nói.

 Thuở quá khứ vô số vô lượng bất khả tư nghị tăng kỳ kiếp có đức Phật xuất thế hiệu Bàng Kỳ La Tư Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Phật Bàng Kỳ La Tư ấy trụ thế thô mười ngàn đại Tỳ Kheo A La Hán câu hội.

 Thời kỳ ấy có người dệt lụa tên là Chúc Phường Tuyến. Người ấy hình mạo đoan chánh khả ái. Chỗ người ấy làm việc cách chỗ đức Phật Bàng Kỳ La Tư chẳng xa. Mỗi ngày xế chiều lúc về nhà, người ấy đến chỗ đức Phật dâng lên một sơị tơ nhỏ và bạch Phật rằng: Mong đức Thế Tôn thương xót tôi mà nhận sợi tơ nầy, nhờ thiện căn đây mà đời sau tôi sẽ được thành Phật đột tất cả chúng sanhĐức Phật Bàng Kỳ La Tư liền thâu nhận. Mỗi ngày dâng cúng một sợi tơ như vậy đủ một ngàn năm trăm sợi. Do phước cúng dường ấy mà thời gian sau người thợ dệt tơ Chức Phường Tuyến Trải qua mười lăm câu chi kiếp chẳng đọa ác đạo, lại trải qua ngàn câu chi lần làm Chuyển Luân Vương, lại trải qua ngàn câu chi lần làm Thiên Đế Thích, do thiện căn ấy lại được gần gũi phụng thờ cúng dường ngàn câu chi đức Phật. Sau đó trải qua một a tăng kỳ kiếp, người ấy xuất thế chứng Vô thượng Bồ đề hiệu Thiện Nhiếp Thọ Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn, trụ thế thọ hai mươi câu chi năm, có Thanh Văn đệ tử hai mươi câu chi na do tha đại A La HánĐức Phật Thiện Nhiếp Thọ thành lập năm câu chi đại Bồ Tát an trụ nơi Vô thượng Bồ đềDiễn thuyết diệu pháp lợi ích an lạc vô lượng vô số chúng sanh xong, đức Phật Thiện Nhiếp Thọ thị hiện nhập Niết Bàn, chánh pháp ở đời đầy một ngàn năm, Xá Lợi lưu bố cúng dường khắp mọi nơi cũng như thời gian sau nầy khi ta nhập Niết Bàn.

 Nầy Xá Lợi Phất! Ông nên quan sát do bố thí chút ít tơ sợi mà phát tâm lớn nên lần lượt thành mãn Phật phápCông đức to lớn ấy do tâm rộng lớn chớ chẳng phải do nơi sợi tơ. Tại sao? Nếu bố thí rộng lớn mà chẳng do tâm thì như vị thí chủ Chức Phường Tuyến kia đem ít chi tơ bố thí lẽ ra chẳng được tâm thanh tịnh cứu cánh. Vì thế nên phải quan sát đại Bồ Tát lúc thật hành Đàn na Ba la mật đa, nương tài thí thế gian bèn được viên mãn tất cả công đức.

 Nầy Xá Lợi Phất! Lúc thật hành Đàn na Ba la mật đa, tánh của Bồ Tát thông minh, trí huệ rất sâu, nhơn bố thí chút ít mà kết quả nhiều. Do sức trí nên kết quả tăng thượng. Do sức huệ nên kết quả quảng đại. Do sức hồi hướng nên kết quả vô biên”.

 Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

 “Bố thí chẳng cầu tài sắc tốt
 Cũng chẳng mong cảm báo trời người
 Vì cầu vô thượng thắng Bồ đề
 Thí ít bèn cảm vô lượng phước
 Bố thí chẳng cầu danh khen tặng
 Chưa từng vì vui và đồ chúng
 Cũng chẳng cầu phước báu thế gian
 Thí ít mà được quả rất lớn
 Bố thí uống ăn và y phục
 Chẳng cầu phước người và phước trời
 Vì cầu biết rõ môn cam lộ
 Thí vật chút ít được phước lớn
 Đã không bồn chồn và cao ngạo
 Cũng rời dua dối và ghét tham
 Các duyên biếng lười đều rời bỏ
 Chỉ siêng bố thí giúp cho đời
 Gạo tiền ngôi vua và thân mạng
 Vui vẻ thí cho lòng chẳng đổi
 Khéo thí như vậy được quả lớn
 Bồ đề giải thoát chưa phải khó
 Mến mừng người đến cầu xin
 Xem như cha mẹ như vợ con
 Có bao của vật thường bố thí
 Thấy người được của lòng không ganh
 Lúc bố thí bị người phá hoại
 Đất đá gậy gộc làm hại mình
 Dầu bị khổ hại lòng không giận
 Lời vẫn dịu dàng lòng vẫn vui
 Thí cho kẻ oán như người thân
 Với kẻ hãi sợ ban vô úy
 Có bao của vật đều thí cả
 Lòng vẫn chưa từng có tiếc nuối
 Luôn cầu pháp Vô thượng Bồ đề
 Chẳng hề mong cầu ngôi đế vương
 Chỉ mong chỗ trang nghiêm giải thoát
 Thường siêng phụng hành pháp bố thí
 Trừ kẻ ham cầu các uế dục
 Có ai muốn cầu ngôi đế vương
 Thế nên người trí chẳng tham ưa
 Ngũ dục ngôi vua và cõi trời
 Đại Bồ Tát thật hành bố thí
 Luôn cầu Phật Bồ đề Vô thượng
 Quên bỏ thân mạng và sự vật
 Mau chóng cảm được nhiều an lạc
 Bồ Tát trí huệ làm bố thí
 Chưa từng rời xa Vô thượng giác
 Chẳng cầu sắc đẹp tiền của nhiều
 Cũng chẳng mong cõi trời hưởng phước
 Dầu cầu Niết Bànvô ý.
 Rời xa tất cả những mong muốn
 Nếu hay tu tập khéo như vậy
 Gọi là người biết đạo và khai đạo.

 Nầy Xá Lơị Phất! Đại Bồ Tát trí huệ thành tựu sự bố thí ấy khéo có thể tu hành Bồ Tát hạnh không có nghi lầm.

 Đây gọi là Đàn na Ba la mật của đại Bồ Tát. Nếu chư đại Bồ TátVô thượng Bồ đềtu hành Bồ Tát hạnh ấy, thì tất cả chúng ma ma dân thiên ma không thể nhiễu loạn được đại Bồ Tát ấy, cũng chẳng bị thua khuất vì các ngoại đạo hay thế luận”.

 Pháp Hội Bồ Tát Tạng
 Phẩm Đàn Na Ba La Mật Đa
 Thứ Sáu
 Hết
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11641)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11967)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11120)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11354)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12070)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12567)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10771)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17991)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11731)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9955)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10174)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12355)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15350)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11248)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14334)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12112)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15374)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12008)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12417)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11191)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12091)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10621)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12561)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13177)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14847)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12696)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16582)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19674)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13114)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12675)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12272)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11865)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10909)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13534)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11960)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11851)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11644)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12774)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14526)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12622)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15666)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13630)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12909)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9880)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18021)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11171)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9085)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12183)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13057)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10316)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12201)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15321)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16613)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12224)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11489)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14277)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19710)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14158)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24616)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10695)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant