Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

35-pháp Hội Thiện Đức Thiên Tử

01 Tháng Năm 201000:00(Xem: 7813)
35-pháp Hội Thiện Đức Thiên Tử

KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

 XXXV
PHÁP HỘI

THIỆN ĐỨC THIÊN TỬ

THỨ BA MƯƠI LĂM

Hán dịch : Nhà Đường Pháp Sư bồ Đề Lưu Chi
Việt dịch : Việt Nam Tỳ Kheo thích Trí Tịnh

Như vậy tôi nghe một lúc đức Phật ở nước Xá Vệ tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo ngàn người câu hội, mười ngàn đại Bồ Tát với Thiện Đức Thiên Tử đồng ở trong pháp hôi.

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo Văn Thù Sư Lợi đại Bồ Tát : « Ông nên vì chư Thiên đại chúng và chư Bổ Tát mà diễn nói cảnh giới thậm thâm của chư Phật ».

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch rằng : « Vâng, bạch đức Thế Tôn ! Nếu thiện nam tử thiện nữ nhơn muốn biết cảnh giới Phật thì nên biết là chẳng phải cảnh giới nhãn nhĩ tỷ thiệt thân và ý, chẳng phải cảnh giới sắc thanh hương vị xúc và pháp.

Bạch đức Thế Tôn ! Phi cảnh giớicảnh giới Phật. Vì nghĩa ấy nên như Vô thượng Bồ đề của Phật đã được là cảnh giới gì ư ? ».

Đức Phật nói : « Không cảnh giới, vì các kiến bình đẳng, vô tướng cảnh giới vì tất cả tướng bình đẳng, vô nguyện cảnh giới vì vì tam giới bình đẳng , vô tác cảnh giới vi hữu tác bình đẳng, vô vi cảnh giớihữu vi bình đẳng vậy ».

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : « Bạch đức Thế Tôn ! Những gì là vô vi cảnh giới ? ».

Đức Phật nói : « Vô niệmvô vi cảnh giới ».

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : « Bạch đức thế tôn ! Nếu vô vi v.v..là cảnh giới Phật ma là vô niệm thì y cứ nơi đâu để nói, vì không sở y thì không sở thuyết, vì không sở thuyết thì bất khả thuyết.

Bạch đức Thế Tôn ! Cảnh giới chư Phật chẳng nói được vậy ».

Đức Phật nói : « Nầy Văn Thù Sư Lợi ! Cảnh giới chư Phật sẽ phải cầu ở đâu.

Bạch đức Thế Tôn !Nên ở trong phiền não của tất cả chúng sanh mà cầu. Tại sao ? Vì tánh phiền não của chúng sanh bất khả đắc, chẳng phải chỗ biết của Thanh Văn Duyên Giác, đây gọi là cảnh giới chư Phật.

- Nầy Văn thù Sư Lợi ! Cảnh giới Phật có tăng giảm chăng ?

- Bạch đức Thế Tôn ! không tăng giảm.

- Nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào biết rõ bổn tánh phiền não của chúng ?

- Bạch đức Thế Tôn ! Như cảnh giới Phật không tăng giảm bổn tánh phiền não cũng không tăng giảm.

- Nầy Văn thù Sư Lợi ! Thế nào là bổn tánh phiền não ?

- Bạch đức Thế Tôn ! Bổn tánh phiền mão là bổn tánh cảnh giới Phật. Bạch đức Thế Tôn ! Nếu bổn tánh phiền não khác cảnh giới Phật thì chẳng nói đức Phật an trụ trong tất cả pháp bình đẳng tánh. Vì tánh phiền não là tánh cảnh giới Phật nên nói đức Phật an trụ tánh bình đẳng..

- Nầy Văn Thù Sư Lợi ! Ông thấy Như Lai an trụ bình đẳng gì ?

Bạch thế Tôn ! Như chỗ tôi hiểu thì hiện hành tham sân si của chúng sanh chỗ trụ của nó bình đẳng là chỗ trụ của Phật.

- Nầy Văn Thù Sư Lợi ! Hiện hành tam độc phiền não của chúng sanh trụ bình đẳng gì ?

- Bạch đức thế Tôn ! Trụ trong tánh bình đẳng không, vô tướng vô nguyện.

- Nầy Văn Thù Sư Lợi ! Trong tánh không ấy sao lại có tham sân si ?

- Bạch đức Thế Tôn ! Trong cái có ấy chỗ có tánh khôngtham sân si.

- Nầy Văn Thù Sư Lợi ! Trong cái có gì nói có tánh không ?

- Bạch đức Thế Tôn !Trong văn tự ngữ ngôn nói có tánh không. Vì có tánh không nên có tham sân si ? Như Phật đã nói : Nầy chư Tỳ Kheo ! Có vô sanh vô vi vô tác vô khởi. Nếu vô sanh vô vi vô tác vô khỡi mà chẳng có thì cũng chẳng thể nói có hữu sanh hữu vi hữu tác hữu khởi. Thế nên , nầy chư Tỳ Kheo ! Do có vô sanh vô vi vô tác vô khởi nên được nói hữu sanh hữu vi hữu tác hữu khởi. Bạch đức Thế Tôn ! Như vậy nếu khôngtánh không vô tướng vô nguyện thì chẳng thể nói tham sân si v.v… tất cả kiến chấp.

- Nầy Văn Thù Sư Lợi ! Do nghĩa ấy nên như Lời ông nói trụ phiền não là trụ tánh không.

- Bạch đức Thế Tôn ! Nếu người quán hạnh mà lìa phiền nãođể cầu tánh không thì chẳng tương ưng, sao lại có tánh không khác với phiền não. Nếu quán phiền não tức là tánh không thì là chánh tư hành vậy.

- Nầy Văn thù Sư Lợi ! Ông trụ phiền não hay lìa phiền não ?

- Bạch đức Thế Tôn ! Tất cả phiền não thảy đều bình đẳng, bình đẳng như vậy tôi chánh tu hành, vào bình đẳng ấy thì chẳng lìa phiền não chẳng trụ phiền não.
Nếu có Sa Môn hay Bà La Môn tự cho mình ly dục mà thấy phiền não của người thì mắc phải hai kiến chấp : nói có phiền nãothường kiến, nói không phiền nãođoạn kiến.

Bạch đức Thế Tôn !Người chánh tu hành chẳng thấy có các tướng tự tha hữu vô. tại sao ? Vì sáng tỏ tất cả pháp vậy.

- Nầy Văn Thù Sư Lợi ! Y đâu để chánh tu hành ?

- Bạch đức Thế Tôn ! Người chánh tu hànhvô sở y vậy.

- Nầy Văn Thù sư Lợi ! Chẳng y nơi đạo để tu hành ư ?

 - Bạch đức thế Tôn ! Nếu có sở ytu hành thì là hhữu vi, nếu hành hữu vi thì chẳng phải bình đẳng, vì chẳng lìa sanh trụ diệt vậy.

- Nầy Văn Thù Sư Lợi ! Trong vô vi chừng có số ư ?

- Bạch đức Thế Tôn !Nếu vô vi có số thì là hữu vi chẳng gọi là vô vi.

- Nầy Văn thù Sư Lợi ! Nếu thánh giả chứng được vô vi thì có pháp ấy đâu không số ư ?

- Bạch đức thế Tôn ! Vì pháp không số nên thánh giả xa lìa số là vô số vậy.

- Nầy Văn Thù Sư Lợi ! Ông chứng thánh pháp hay chẳng chứng ?

- Bạch đức Thế Tôn ! Nếu hỏi hóa nhơn rằng ông chứng thánh pháp hay chẳng chứng thì nó sẽ đáp thế nào ?

- Nầy Văn Thù Sư Lợi ! Xét về hóa nhơn thì không thể nói chứng hay không chứng.

- Bạch đức Thế Tôn ! Đức Phật há chẳng đã dạy rằng tất cả pháp đều như hóa ư ?

- Nầy Văn Thù Sư Lợi ! Đúng như vậy.

Bạch đức Thế Tôn ! Nếu tất cả pháp như hóa, sao lại hỏi rằng ông chứng thánh pháp hay chẳng chứng ?

- Nầy Văn Thù Sư Lợi ! Trong tam thừa ông chứng bình đẳng nào ?

- Bạch đức Thế Tôn ! Phật giới bình đẳng , tôi chứng như vậy.

- Nầy Văn Thù Sư Lợi ! Ông được cảnh giới Phật ư ?

- Bạch đức Thế Tôn ! Nếu Thế Tôn được thì tôi được ».

Tôn giả Tu Bồ Đề hỏi Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát : « Đức Như Lai chẳng được cảnh giới Phật ư ? ».

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : « Tôn giả ở nơi cảnh giới Thanh Văn có được chăng ? ».

Tôn giả Tu Bồ Đề nói : « Thánh giả giải thoát phi đắc phi bất đắc ».

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : « Đúng như vậy. Như Lai giải thoát chẳng phải có cảnh giới chẳng phải không cảnh giới ».

Tôn giả Tu Bồ Đề nói : « Ngài chẳng thủ hộ Bồ Tát tân phát ý mà diễn nói pháp ».

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : « Ý Tôn giả thế nào, nếu có y sĩ vì thủ hộ bịnh nhơn mà chẳng cho uống thuốc đắng cay chua chát, đó là chữa lành hay là để chết ? ».

Tôn giả Tu Bồ Đề nói : « Đó là để chết khổ chớ chẳng phải ban cho an vui ».

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : « Cũng vậy, người thuyết pháp nếu thủ hộ người nghe e rằng họ kinh sợ mà giấu các nghĩa thậm thâm như vậy chỉ dùng văn từ câu nghĩa tạp cạn để diễn thuyết thì là trao cho chúng sanh những khổ sanh lão bịnh tử mà chẳng ban cho họ Niết bàn an lạc ».

Lúc nói pháp nầy, có năm trăm Tỳ Kheo chẳng thọ các pháp lậu tận ý giải, tám ngàn chư Thiên xa trần rời cấu ở trong các pháp được pháp nhãn thanh tịnh, bảy trăm Thiên Tử phát tâm Vô thượng Bồ đề phát nguyện rằng đời vị lai chúng tôi sẽ được biện tài như Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.

Tôn giả Tu Bồ Đề hỏi Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát : « Ngài há chẳng dùng pháp Thanh Văn để vì người Thanh Văn mà nói ư ? ».

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : « Tất cả pháp của các thừa được tôi thừa trên đó ».

Tôn giả Tu Bồ Đề nói : »Ngài là Thanh Văn, Bích Chi Phật hay là Chánh Đẳng Giác ? ».

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : « Tôi là Thanh Văn vì chẳng nhơn nơi âm thanh của người

khác mà sanh hiểu biết vậy. Tôi là Bích Chi Phật vì chẳng bỏ đại bi vô sở úy vậy. Tôi là Chánh Đẳng Giác vì chẳng bỏ bổn nguyện vậy ».

Tôn giả Tu Bồ Đề hỏi : « Ngài làm Thanh Văn thế nào ? ».

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : « Các chúng sanh kia chưa từng được nghe pháp, vì khiến họ được nghe nên tôi làm Thanh Văn ».

Tôn giả Tu Bồ Đề hỏi : « Ngài làm Bích Chi Phật thế nào ? ».

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : « Chúng sanh pháp giới vì làm cho họ hiểu nên gọi tôi là Bích Chi Phật ».

Tôn giả Tu Bồ Đề hỏi : « Ngài làm Chánh Đẳng Giác thế nào ? ».

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : « Tất cả các pháp, pháp giới bình đẳng, vì biết rõ như vậy nên tôi làm Chánh Đẳng Giác ».

Tôn giả Tu Bồ Đề hỏi : « Ngài quyết định trụ địa nào ? ».

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : « Tôi trụ tất cả địa vậy ».

Tôn giả Tu Bồ Đề hỏi : « Ngài cũng trụ phàm phu địa chăng ? ».

Văn Thù Sư Lợi nói : « Tôi cũng quyết định trụ phàm phu địa vậy ».

Tôn giả Tu Bồ Đề hỏi : « Có mật ý gì mà Ngài nói như vậy ? ».

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : « Vì tất cả pháp tự tánh bình đẳng nên tôi nói như vậy ».

Tôn giả Tu Bồ Đề hỏi : « Nếu tất cả pháp tự tánh bình đẳng thì ở chỗ nào mà lập thành các pháp : đây là Thanh Văn địa, là Bích Chi Phật địa, là Bồ Tát Phật địa ư ? ».
Văn thù Sư Lợi Bồ Tát nói : « Như trong thập phương hư không giới mà nói rằng đây là Đông phương hư không , đây là Nam, Tây, Bắc tứ duy thượng hạ phương hư không. Nói có các phương hư không sai biệt như vậy, chẳng phải ở nơi hư không có khác nhau. Vì thế, nên thưa Tôn giả ! Y cứ trong tất cả pháp cứu cánh không mà lập thành tướng các địa, cũng chẳng phải không tánh có sai khác vậy ».

Tôn giả Tu Bồ Đề hỏi : « Ngài đã chứng nhập chánh tánh ly sanh rồi chăng, ».

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : « Tôi đã chứng nhập nhưng cũng lại xuất ».

Tôn giả Tu Bồ Đề hỏi : « Sao đã chứng nhập mà lại còn xuất ? ».

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : « Tôn giả nên biết đây là trí huệ phương tiện của Bồ Tát, ở nơi chánh tánh ly sanh như thiệt chứng nhập rồi phương tiện mà xuất. Ví như có người rất giỏi thuật bắn tên có một kẻ oán thù, xạ sư nầy nghĩ muốn giết hại. Xạ sư lại có một con trai rất thương yêu. Bấy giờ con trai ấy đương ở trong đồng hoang, xạ sư nhận lầmkẻ thù, buông tên ra, đứa con la lên, xạ sư có sức thần tốc vọt đến bên con bắt lấy mũi tên ấy. Cũng vậy, vì điều phục Thanh Văn, Bích Chi Phật nên Bồ Tát nhập chánh vị rồi từ đó mà xuất chẳng sa vào Thanh Văn địa, Bích Chi Phật địa, do nghĩa nầy mà gọi là Phật địa ».

Tôn giả Tu Bồ Đề hỏi : « Thế nào mà Bồ Tát được địa ấy ? ».

Văn thù Sư Lợi Bồ Tát nói : « Nếu chư Bồ Tát trụ tất cả địa mà vô sở trụ thì được địa nầy. Nếu hay diễn nói tất cả địa mà chẳng trụ địa hạ liệt là được địa nầy. Nếu có tu hành vì hết tất cả chúng sanh phiền nãopháp giới vô tận, dầu trụ vô vihành hữu vi, ở trong sanh tử tưởng như vườn nhà chẳng cầu Niết bàn là được địa nầy. Có bao nhiêu chí nguyện đều khiến viên mãn, được vô ngã nhẫn thành thục chúng sanh là được địa nầy, có trí huệ Phật mà chẳng sanh lòng sân hận đối với kẻ vô trí là được địa nầy, vì người cầu phápchuyển pháp luân nhưng ở nơi pháp giới không có sai biệt tu hành như vậy là được địa nầy.

Lại nữa, nếu có Bồ Tát xô dẹp ma oán mà hiện làm tứ ma là được địa nầy ».

Tôn giả Tu Bồ Đề nói : « Hạnh Bồ Tát ấy, tất cả thế gian rất khó tin được ».

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : « Đúng như lời Tôn giả, hạnh Bồ Tát ấy siêu quá thế pháp ».

Tôn giả Tu Bồ Đề nói : « Ngài nên vì tôi mà nói siêu quá thế gian ấy ».

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : « Luận về thế gian gọi là ngũ uẩn. Trong các uẩn ấy, sắc là tánh khối bọt nước, thọ là tánh bong bóng nước, tưởng là tánh dương diệm, hành là tánh cây chuối, thức là tánh ảo huyễn. Như vậy nên biết bổn tánh thế gian là khối bọt bóng nước dương diệm cây chuối ảo huyễn, trong ấy không có uẩn không có danh tự uẩn, không có chúng sanh không có danh tự chúng sanh, không có thế gian siêu quá thế gian. Ở nơi ngũ uẩn nếu chánh biết như vậy thì gọi là thắng giải. Nếu chánh thắng giải thì bổn lai giải thoát. Nếu bổn lai giải thoát thì chẳng tham trước thế pháp. Nếu chẳng tham trước thế pháp thì là siêu quá thế gian.

Lại nầy Tôn giả Tu Bồ Đề ! Ngũ uẩn bổn tánh không, nếu bổn tánh không thì không có ngã ngã sở, nếu khôngngã ngã sở thì là vô nhị. Nếu bổn vô nhị thì không có thủ xả, vì không có thủ xả nên không có sở trước, vì không sở trước nên siêu quá thế gian.

Lại nầy tôn giả Tu Bồ Đề ! Ngũ uẩn ấy thuộc nhơn duyên, nếu thuộc nhơn duyên thì chẳng thuộc ngã chẳng thuộc chúng sanh, nếu chẳng thuộc ngã chúng sanh thì là vô chủ, vô chủ thì vô thủ, vô thủ thì vô tránh. Vô tránh luận là pháp Sa Môn, như tay vẽ trong hư không chẳng có chạm đụng. Tu hành không bình đẳng tánh như vậy thì siêu quá thế gian.

Lại nầy Tôn giả Tu Bồ Đề ! Ngũ uẩn pháp giới đồng nhập pháp giới thì là không có giới. Nếu không có giới thì không có địa thủy hỏa phong các giới, không ngã chúng sanh thọ mạng, không dục sắc giới vô sắc giới, không hữu vi vô vi sanh tử Niết bàn giới. Nhập giới nầy rồi thì cùng chung với thế gian mà không sở trụ. Nếu không sở trụ thì siêu quá thế gian vậy ».

Lúc nói pháp siêu quá thế gian, có hai trăm Tỳ Kheo chẳng thọ các pháp lậu tận ý giải đồng cởi y Uất đa la tăng choàng lên mình Văn Thù Sư Lợi Bồ Tátđồng thanh xướng rằng : « Nếu người chẳng tin hiểu pháp môn nầy thì người ấy không chỗ được cũng không chỗ chứng ».

Tôn giả Tu Bồ Đề hỏi chư Tỳ Kheo : « Các Trưởng Lão ! Các Ngài có chút ít được chứng chăng ? ».

Chư Tỳ Kheo đáp : « Nếu là kẻ tăng thượng mạn thì có thể nói là có được có chứng. Pháp của Sa Môn không tăng thượng mạn thì không được không chứng. Họ ở chỗ nào mà động niệm tự cho rằng tôi được như vậy tôi chứng như vậy. Nếu ở trong đây mà sanh động niệm là ma nghiệp ».

Tôn giả Tu Bồ Đề hỏi : « Nầy chư Trưởng Lão ! Như chỗ hiểu của các Ngài thì được gì chứng gì mà nói như vậy ư ? ».

Chư Tỳ Kheo nói : « Chỉ có đức Thế TônVăn Thù Sư Lợi biết chỗ được chỗ chứng của tôi. Bạch Tôn giả ! Như chỗ tôi hiểu, nếu chẳng biết rõ tướng khổ, tướng tập, tướng diệt, tướng đạo mà nói rằng khổ ấy tôi phải biết thì là tăng thượng mạn, tập ấy phải dứt, diệt ấy phải chứng, đạo ấy phải tu đều là tăng thượng mạn vậy. Họ chẳng biết rõ tướng khổ tập diệt đạo mà nói rằng khổ tôi đã biết tập tôi đã dứt diệt tôi đã chứng và đạo tôi đã tu đều là tăng thượng mạn vậy.

Thế nào là khồ tướng ? Đó là vô sanh tướng, tập, diệt, đạo tướng cũng vậy.

Nếu là vô sanh tướng thì là vô tướng, trong ấy vô sở đắc, không có chút khổ để biết, tập để dứt, diệt để chứng và đạo dể tu. Nếu ở trong nghĩa thánh đế được nói đây mà chẳng kinh chẳng sợ thì chẳng phải tăng thượng mạn, còn nếu có kinh có sợ là tăng thượng mạn vậy ».

Đức Thê Tôn khen chư Tỳ Kheo : « Lành thay, lành thay ! Nầy Tu Bồ Đề ! Trong thời chánh pháp của Phật Ca Diếp, chư Tỳ Kheo ấy đã được ngheVăn thù Sư Lợi diễn nói pháp thậm thâm ấy. Vì thuở xưa đã tu pháp thậm thâm nên nay được nghe liền tùy thuận mau hiểu rõ. Ở trong pháp của ta theo thứ đệ như vậy, người nghe pháp thậm thâm ấy mà có thể tin hiểu, tất cả sẽ nhập vào số đại chúng trong pháp của Phật Di Lặc.

Bấy giờ Thiện Đức Thiên Tử bạch Văn Thù Sư Bồ Tát : « Ngài luôn luôn thuyết pháp tại Diêm Phù Đề, chúng tôi xin thỉnh Ngài đến cung Đâu Suất. Chư Thiên Tử nơi ấy cũng đã trồng căn lành rộng lớn từ lâu, họ được nghe pháp sẽ được hiểu rõ. Vì họ ham vui nên không thể đến chỗ Phật nghe pháp để phải mất lợi ích ».

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát liền hiện thần biến khiến Thiện Đức Thiên Tử và tất cả chúng hội đều tự cho mình vào cung trời Đâu Suất, thấy vườn rừng cung điện lâu đài nơi ấy báu đẹp trang nghiêm. Các đài báu từng cấp cao rộng đến hai mươi từng, các màn lưới báu và các hoa trời bủa khắp mọi nơi, các loài chim lạ bay lượn hòa minh, trong hư không có các thiên nữ rải hoa mạn đà la, ca vịnh khen tặng du hí khoái lạc.

Thấy vậy Thiện Đức ThiênTử bạch Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát : « Rất hi hữu, bạch Ngài ! Sao chúng tôi đến cung trời Đâu Suất quá mau như vậy, thấy những lâu đài và chư Thiên. Mong Ngài vì họ mà thuyết pháp ».

Tôn giả Tu Bồ Đề bảo Thiện Đức Thiên Tử : « Ông chẳng rời lìa pháp hội mà đến chỗ khác, đó là do Văn Thù Sư Lợi biến hóa khiến ông tự thấy nhập cung trời Đâu Suất ».

Thiện Đức Thiên Tử bạch đức Phật : « Bạch đức Thế Tôn ! Rất hi hữu Văn Thù Sư Lợi du hí tam muội thần thông biến hóa, trong một sát na liền khiến toàn đại hội nầy đều nhập cung trời Đâu Suất ».

Đức Phật phán : « Nầy Thiện Đức Thiên Tử ! Ông đâu thấy thần thông biến hóa của Văn Thù Sư Lợi. Như chỗ ta biết thì Văn Thù Sư Lợi nếu muốn đem hằng sa Phật độ công đức trang nghiêm tập họp tại một Phật độ thì liền có thể hiện được. Ông ấy hoặc dùng đầu ngón tay cất hằng sa Phật độ qua khỏi hằng sa Phật độthượng phương rồi đặt tại hư không. Hoặc ông ấy đem nước của tất cả đại hải trong các Phật độ để vào một lỗ lông mà loài thủy tộc không hề thấy chật hẹp và đều tự thấy chẳng rời khỏi biển. Hoặc ông ấy đem tất cả núi Tu Di trong các thế giới để váo trong một hột cải mà chư Thiênnúi Tu Di đều tự cho mình vẫn ở bổn cung. Hoặc ông ấy đem tất cả ngũ đạo chúng sanh trong các thế giới đặt trong bàn tay ổng cho hưởng đồ dùng đẹp báu như Nhứt Thiết Lạc Trang Nghiêm. Hoặc ông ấy đem tất cả khối lửa trong các thế giới để vào trong một khăn bông đâu la. Hoặc ông ấy dùng một lỗ lông có thể che đậy tất cả nhựt nguyệt của các thế giới. Tùy chỗ đáng nên làm ông ấy đều làm được cả ».

Lúc bấy giờ ác ma hóa làm Tỳ Kheo bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn

Chúng tôi muốn thấy Văn Thù Sư Lợi hiện tiền làm những thần thông biến hóa ấy, cần gì phải tuyên lời hư cuống như vậy mà các thế gian khó tin được ».

Đức Thế Tôn bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát : « Ông nên ở trong chúng hội nầy mà hiện thần biến ».

Văn Thù Sư Lợi chẳng rời chỗ ngồi , nhập tâm tự tại nhứt thiết pháp trang nghiêm tam muội, liền thị hiện thần biến đúng như lời đức Phật đã trình bày.

Ma cùng chúng hộiThiện Đức Thiên Tử đều thấy. Đại chúng khen chưa từng có và đồng nói rằng : « Lành thay lành thay , do đức Phật xuất hiện mà có bực Chánh sĩ nầy ở trong thế gian khai diễn pháp môn thậm thâm hiện các thần biến ».

Do oai thần của Văn Thú Sư Lợi Bồ Tát, ác ma bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Rất hi hữu, Văn Thù Sư Lợithần thông như vậy, nay chúng hội nầy cũng đều hi hữu vì tin hiểu được thần thông biến hóa của Văn Thù Sư Lợi vậy. Bạch đức Thế Tôn ! Dầu cho có hằng hà sa ác ma cũng chẳng lưu nạn được các thiện nam tử thiện nữ nhơn tin hiểu nầy. Tôi cũng là ác ma Ba Tuần hằng tìm dịp hại Phật não loạn chúng sanh. Từ đây về sau tôi lập thệ nguyện : nếu xứ nào có pháp môn nầy lưu hành mà có người tin hiểu ưa thích thọ trì đọc tụng diễn nói, thì ngoài trăm do tuần bốn phía chỗ ấy , tôi chẳng đi qua trong đó.

Bạch đức Thế Tôn ! Nhưng quyến thuộc tôi có kẻ muốn đoạn diệt pháp Như Lai nên khiến người tu hành tâm niệm tán loạn, vì hàng phục họ nên tôi nói đà la ni chú. Nếu thiện nam tử thiện nữ nhơn ở nơi pháp môn nầy biên chép đọc tụng vì người diễn thuyết, chư Thiên ma sẽ được lợi lành khiến người thuyết pháp thân tâm vui đẹp siêng năng tu tập, cũng ban cho vô ngại biện tàiđà la ni cùng thừa sự cung cấp y phục ẩm thực ngọa cụ thang dược chẳng để thiếu thốn ».

Ba Tuần liền nói chú rằng : « Đát diệt tha, a mạt lệ, tì mạt lệ, thế đa đê, a yết tì, thị đa thiết đỗ rô, thệ duệ đỗ dã thiệt đê, bộ đa thiệt đê già mễ lệ, phiến đê, tô phổ đê, phổ phổ tế, địa rị tô khê, vị để, khả nghệ, mễ tẩy lễ, ương củ lệ bạt lệ, hô lô hốt lê, sách hê, thâu thú mễ đề địa rị, a na phiệt đê để để sử tra nệ, khất lợi đa rị đê, khất rị đa phí đê, phì lô giá đô phí để mạn đát ra bột trì na đà lộ ca, á bạt la mục đa ế phạ tô rị gia.

Bạch đức Thế Tôn ! Nếu thiện nam tử thiện nữ nhơn chuyên tinh thọ trì đà la ni nầy thì tâm họ chẳng tán loạn thường được Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già thủ hộ, tất cả ác quỉ không làm hại được ».

Lúc ma Ba Tuần nói chú ấy, cõi Đại Thiên chấn động sáu cách.

Đức Thế Tôn khen ma Ba Tuần : « Lành thay lành thay, nầy Ba Tuần ! Biện tài của ông nên biết đó cảnh giời thần thông cùa Văn Thù Sư Lợi ».

Lúc Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát hiện thần thôngma Ba Tuần nói chú có ba vạn hai ngàn chư Thiên phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nhiếp thần lực lại khiến đại chúng tự thấy như cũ.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bảoThiện Đức Thiên Tử ! « Ông đến trời Đâu Suất phổ biến cho Thiên chúng hay rằng tôi sẽ đến đó ».

Thiện Dức Thiên Tử cùng quyến thuộc đảnh lễ chưn Phật và Bồ Tát, Thanh Văn đại chúng rồi bổng ẩn mất, giây lát về đến cung trời Đâu Suất phổ cáo khắp Thiên chúng rằng : « Chư Thiên chúng nên biết Văn Thù Sư Lợi Bồ Tátthương xót Thiên chúng nên muốn đến đây. Thiên chúng phải nên bỏ các dục lạc lìa xa kiêu mạn, cung kính tôn trọng tùy thuận nghe pháp » .

Thiện đức Thiên Tử trang nghiêm đạo tràng đúng theo pháp rồi chắp tay thỉnh rằng : « Bạch Ngài Văn Thù Sư Lợi ! Nay đã đến giờ ».

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát cùng một vạn Bồ Tát và năm trăm đại Thanh Văn cùng Thiên Long Bát Bộ lễ chưn đức Phật rồi ẩn, hiện đến cung trời Đâu Suất theo thứ tự ngồi nơi đạo tràng. Các đại chúng đều nghe trời Tứ Thiên Vương, trời Đao Lợi, trời Dạ Ma, trời Đâu Suất, trời Hóa Lạc, trời Tha Hóa, trời Ma Chúng, Phạm Chúng đến trời Hữu Đảnh xướng nhau rằng : « Nay Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ở tại cung trời Đâu Suất sắp muốn thuyết pháp ».Chư Thiên nghe lời xướng nầy có vô số trăm ngàn đồng đến tập họp, cả cung trời Dục giới không đủ chỗ dung thọ. Do thần lực của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát khiến chư Thiên chúng tự thấy rộng rãi không trở ngại nhau.

Thiện Đức Thiên Tử bạch Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát : « Đại chúng đã vân tập xong xin Ngài thuyết pháp cho ».

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bảo Thiện Đức Thiên Tử : « Có bốn pháp Bồ Tát an trụ chẳng phóng dật thì hay nhiếp thủ tất cả Phật pháp, một là an trụ giới luật mà đủ đa văn, hai là an trụ thiền định mà hành trí huệ, ba là an trụ thần thông mà khởi đại trí, bốn là an trụ tịch tĩnh mà thường quan sát.

Nầy Thiên Tử ! có tám pháp nhập vào giới luật : thân thanh tịnh, ngữ thanh tịnh , ý thanh tịnh, kiến thanh tịnh, đầu đà công đức thanh tịnh, mạng thanh tịnh, bỏ lìa tất cả dị tướng đem lợi cầu lợi thanh tịnh và chẳng xả bỏ Nhứt thiết trí tâm thanh tịnh. Đây là tám pháp nhập vào giới luật.

Lại có tám pháp nhập vào đa văn : tôn trọng, khiêm hạ, phát khởi tinh tiến, chẳng mất chánh niệm, nghe pháp liền thọ trì, tâm khéo quan sát, đem pháp được nghe dạy lại kẻ khác và chẳng tự khen mà chê người . Đây là tám pháp nhập vào đa văn.

Lại có tám pháp nhập vào thiền định : tịch tĩnh, ở a lan nhã, bỏ lìa ồn ào, chẳng nhiễm cảnh giới, thân tâm khinh an, tâm duyên định cảnh, tuyệt các tướng âm thanh, bớt ăn uống vừa nuôi thân và chẳng lấy thánh lạc. Đây là tám pháp nhập vào thiền định.

Lại có tám pháp nhập vào trí huệ : uẩn thiện xảo, giới thiện xảo, xứ thiện xảo , các duyên khởi thiện xảo, đế thiện xảo, tam thế thiện xảo, tất cả thừa thiện xảo và tất cả Phật pháp thiện xảo. Đây là tám pháp nhập vào trí huệ.

Lại có tám pháp nhập vào thần thông : Thiên nhãn thông vì thây không chường ngại, Thiên nhĩ thông vì nghe không chường ngại,Tha tâm thôngquan sát tâm tất cả chúng sanh, Túc mạng thông vì ghi nhớ tiền tế, Thần túc thôngthị hiện tất cã thần biến, Lậu tận thông vì hết sạch tất cả lậu chúng sanh, chẳng trụ phiền não chẳng thủ giải thoát vỉ phương tiện lực và chẳng y Thanh Văn giải thoátnhập Niết bàn. Đây là tám pháp nhập vào thần thông.

 Lại có tám pháp hay nhập vào trí : khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí, nhơn trí, duyên trí, thế trínhứt thiết trí. Đây là tám pháp hay nhập vào trí.

Lại có tám pháp nhập vào tịch tĩnh : nội tịch tĩnh, ngoại tịch tĩnh, ái tịch tĩnh thủ tịch tĩnh, hữu tịch tĩnh, sanh tịch tĩnh, tất cả phiền não tịch tĩnhtam giới tịch tĩnh. Đây là tám pháp nhập vào tịch tĩnh.

Lại có tám pháp nhập vào quan sát : giời, văn, thiền định, trí huệ, thần thông, trí, tịch diệtbất phóng dật. Đây là tám pháp nhập vào quan sát.

Nầy Thiên Tử ! Vì Bồ Tát an trụ bốn pháp ấy chẳng phóng dật nên chư Phật Bồ đề và pháp Bồ đề phần đều sẽ được tất cả. Thế nên y nơi bất phóng dật nầy mà an trụ vậy

Chư Thiên Tử y nơi bất phòng dật thì ba điều vui thường chẳng tổn giảm, đó là thiên lạc, thiền định lạc và Niết bàn lạc.

Chư Thiên Tử y nơi bất phóng dật mà an trụ lại lìa được ba thứ khổ, đó là khổ khổ, hành khổhoại khổ. Lại siêu được ba thứ bố úy, đó là địa ngục, súc sanhngạ quỉ. Lại siêu được tam hữu, đó là dục hữu, sắc hữuvô sắc hữu. Lại lìa được tam cấu, đó là tham cấu, sân cấu và si cấu. Lại sẽ được viên mãn ba học xứ, đó là tăng thượng giới, tăng thượng tâmtăng thượng huệ. Lại thường được cúng dường Tam bửu, đó là Phật bửu, Pháp bửu và Tăng bửu. Lại được lìa ba thứ chướng Ba la mật, đó là sự xan lẫn, ganh ghét người bố thítùy thuận kẻ xan lẫn. Tự phá giới, ghét người trì giớitùy thuận kẻ phá giới. Tự sân, ghét người nhẫn nhụctùy thuận kẻ sân. Tự giải đãi ghét người tinh tiếntùy thuận kẻ giải đãi. Tự tán loạn,ghét người thiền địnhtùy thuận kẻ tán loạn. Tự không trí huệ, ghét người trí huệtùy thuận kẻ không trí huệ.

Lại nầy Thiên Tử ! Y nơi bất phóng dật mà an trụ sẽ được ba thứ trợ bạn Ba la mật : đó là bố thí tăng trưởng, chẳng cầu quả báohồi hướng Bồ đề. Giới tăng trưởng, chẳng cầu sanh thiênhồi hướng Bồ đề . Nhẫn nhục tăng trưởng, với tất cả chúng sanh chẳng có lòng hại và hồi hướng Bồ đề. Tinh tiến tăng trưởng, trồng các thiện căn không nhàm đủ và hồi hướng Bồ đề. Thiền định tăng trưởng, tâm chẳng tán loạnhồi hướng Bồ đề. Trí huệ tăng trưởng , thường tu thiện nghiệp và hồi hướng Bồ đề .

Nầy chư Thiên Tử ! An trụ pháp bất phóng dật thì tăng trưởng tất cả thiện pháp được đức Phật hứa khả.

Lại tất cả pháp như hư không, bốn pháp chánh cần đây phải thường quan sát :

Đó là các pháp tánh vô tác, điều bất thiện chưa sanh vì chẳng sanh nó nên phát khởi tinh tiến.

Pháp tánh thanh tịnh, điều bất thiện đã sanh vì trừ diệt nó nên phát khởi tinh tiến.

Pháp tánh tịch tĩnh, điều thiện chưa sanh vì khiến được sanh nên phát khởi tinh tiến.

Pháp tánh vô xứ vô hành, điều thiện đã sanh vì an trụ chẳng mất mà phát khởi tinh tiến.

Đây là bốn chánh cần của Bồ Tát được Phật ấn khả vậy.

Lại nầy chư Thiên Tử ! Pháp tánh bình đẳng vô sanh vô diệt, vì y pháp tánh vô sở đắc nầy mà chẳng làm các điều ác vì thuận pháp tánh mà siêng tu các điều lành. Tu như vậy là vô sở tu.

Lại ở nơi tất cả pháp chẳng thủ chẳng xả, đây gọi là chánh cần vậy.

Lại nữa, nầy chư Thiên Tử !Nên quán Tứ niệm xứ : đó là không thân trụ xứ, không thọ trụ xứ, không tâm trụ xứ, không pháp trụ xứ, không chỗ trụ xứ, không chỗ kiến lập, đây gọi là niệm xứ.

Lại quán Tứ như ý túc : một là thân tâm chẳng giải đãi vì thích muốn tu các pháp lành vậy, hai là vì thành thục các chúng sanhphát khởi tinh tiến dứt tham dục vậy, ba là vì tất cả pháp bất khả đắc mà chứng các Phật pháp vậy, bốn là vì tâm như huyễn hóa pháp vô sở y nên siêu quá tất cả thủ trước vậy.

Lại nên quán ngũ căn : một là tín căn, vì quyết định an trụ trong các pháp làm thượng thủ vậy ; hai là tinh tiến căn, vì tu khắp các hạnh để thành tựu Phật thân vậy : ba là niệm căn, vì đầy đủ các pháp tâm khéo điều nhu không quên mất vậy ; bốn là định căn, vì xa rời phan duyên chẳng tùy theo hôn trầm thùy miên vậy ; năm là huệ căn, vì quyết đoán các pháp chánh quán hiện tiền chẳng theo nơi người khác vậy.

Lại nên quán Ngũ lực, đó là an trụ trong các pháp tánh như vậy thì tất cả phiền não không trở hoại được nên gọi là lực.

An trụ các lực ấy bèn được thắng pháp như thiệt biết rõ phi dị phi như nên gọi là giác phần.

Nếu ở nơi các pháp tùy thuận biết rõ, do nơi đạo hạnh ấy mà thứ đệ tu hành thông đạt bí mật ở nơi pháp bất động thì gọi là Thánh đạo.

Nầy chư Thiên Tử ! Vì thế nên phải tu ba mươi bảy phẩm Bồ đề phần pháp như vậy vượt hơn các công hạnh không còn chướng ngại trí huệ sáng rõ cứu cánh tịch tĩnh.

Thế nào gọi là cứu canh tịch tĩnh ? Nghĩa là các pháp không khởi không tận, vì không tận nên không tác, vì không tác nên cũng chẳng phải không tác, không thọ, không kẻ thọ, không thi thiết, đây gọi là cứu cánh tịch tĩnh vậy ».

Lúc Van Thù Sư Lợi Bồ Tát nói pháp nầy, có vạn hai ngàn Thiên Tử ở trong các pháp được pháp nhãn thanh tịnh.

Thiện Đức Thiên Tử hỏi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát : « Bồ Tát tu tập nơi đạo thế nào ? ».

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : « Nầy Thiên Tử ! Nếu Bồ Tát chẳng bỏ sanh tử mà làm cho chúng sanh nhâp nơi Niết bàn, chẳng bỏ ái thủ mà độ chúng sanh làm cho họ đứng nơi thánh đạo thì gọi là Bồ Tát tu tập nơi đạo vậy.

Lại người tu tập nơi đạo là thiện xảo an trụ tánh không thanh tịnh . Tại sao ? Vì Bồ Tát dùng tâm tịch tĩnh thấy tất cả pháp tự tánh thanh tịnh, rồi vì các chúng sanh chấp kiến an trụ tùy miên không có phương tiện mà diễn nói các pháp tự tánh không. Tại sao ?Vì các chúng sanh ấy ỡ trong tự tánh không mà sanh chấp kiến vậy.
Bồ Tát nầy dùng vô tướng vô nguyện tất cả pháp tự tánh bất sanh , vi các phàm phu từ lâu quen theo phiền não sanh diệt chấp kiến ở nơi vô sanh nầy làm cho họ tin ưa mà ở nơi sanh diệt cũng không chỗ động. Đây gọi là Bồ Tát tu tập nơi đạo vậy. 

Nầy Thiên Tử ! Nên thấy đạo khứ lai của Bồ Tát.

- Bạch Ngài Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào là đạo khứ lai của Bồ Tát ?

- Nầy Thiên Tử ! Chư Bồ Tát vì chứng Bồ đề mà đi, vì như chỗ nên thuyết pháp mà đến. Vì được các thiền định giải thoát mà đi, vì hiện sanh trong dục giới mà đến. Vì nhập vào thánh đạo nên đi, vì đại bi thành thục chúng sanh nên đến, vì được vô sanh pháp nhẫn mà đi, vì nhẫn thọ chúng sanh nên đến. Vì nơi tất cả pháp xuất ly nên đi, vì độ chúng sanh nên đến. Vì thệ nguyện kiên cố mà đi, vì thệ nguyện không tự tánh mà đến. Vì ba giải thoát môn mà đi, vì thọ sanh mà đến. Vì Bồ đề đạo tràng nên đi, vì an lập chúng sanh nơi Bồ đề nên đến. Đây gọi là đạo khứ lai của Bồ Tát vậy ».

- Lúc nói Bồ Tát đạo nầy, có năm trăm Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn.

Thiện Đức Thiên Tử hỏi : « Bạch Ngài Văn Thù Sư Lợi ! Chúng tôi có được nghe thế giới tên là Nhứt Thiết Công Đức Quang Minh. Thế giới ấy ở đâu, đức Như Lai nào hiện thuyết pháp nơi ấy ? ».

Văn Thù Sư Lợi Bố Tát nói : « Nầy Thiên Tử ! Thế giới Nhứt Thiết Công Đức Quang Minh ấy ở Thượng phương quá đây mười hai hằng hà sa Phật độ, đức Phổ Hiền Như Lai thuyết pháp trong ấy”.

Chư Thiên Tử đồng thanh nói : « Chúng tôi muốn thấy thế giới ấy và đức Phổ Hiền Như Laỉ ».

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát liền nhập quang minh trang nghiêm tam muội, do sức tam muội phóng đại quang minh chiếu qua mười hai hằng hà sa thế giới chiếu khắp thế giới Nhứt Thiết Công Đức Quang Minh. Chư Bồ Tát ở đó hỏi duyên cớ quang minh ấy. Đức Phổ Hiền Như Lai bảo rằng ở Hạ phương quá mười hai hằng hà sa Phật độthế giới tên Ta Bà, Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác hiện tại thuyết pháp. Nơi đó có Bồ Tát tên Văn Thù Sư Lợi nhập quang minh trang nghiêm tam muội phóng đại quang minh chiếu khắp vô lượng Phật độ mười phương, quang minh ấy chiếu đến nơi nầy.

Chư Bồ Tát bạch Phổ Hiền Như Lai rằng : « Chúng tôi muốn thấy Phật Thích Ca Mâu NiBồ Tát Văn Thù Sư Lợi ». Đức Phổ Hiền Như Lai liền phóng đại quang minh chiếu mười hai hằng hà sa thế giới Hạ phương đến Ta Bà thế giới cho chư Bồ Tát ấy đều thấy rõ Phật và chúng hội bên nầy.

Phổ Hiền Như Lai hỏi chư Bồ Tát : « Ai có thể qua được thế giới Ta Bà kia ? ».

Trì Pháp Cự đại Bồ Tát bạch rằng : « Tôi có thể qua được ».

Phổ Hiền Như Lai bảo rằng : « Nay đã phải giờ ».

Trì Pháp Cự đại Bồ Tát cùng với mười ức Bồ Tát ẩn nơi ấy mà hiện đến cung trời Đâu Suất phóng đại quang minh chiếu khắp thế giới.

Cả chúng hội Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La,Ma Hầu La Già, Thích, Phạm, Hộ Thế chư Thiên Tử và chư Thanh Văn, chư Bồ Tát đều được chưa từng có đồng nói rằng : « Chư Bồ Tát nầy du hí thần thông rất là hi hữu ».

Nhơn quang minh ấy mà chúng hội thấy thế giới Nhứt Thiết Công Đức Quang Minh và Phổ Hiền Như Lai, cõi ấy trang nghiêm dầu trong một kiếp nói cũng chẳng hết được.

Trong lúc Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát hiện thần biến, có bảy na do Thiên Tử phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Trì pháp Cự Bồ Tát nói với Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát : « Nên cùng đến đảnh lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn ».

Bấy giờ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát với chư Thiên Tử đáng được độ thì đều độ rồi, liền cùng Trì Pháp Cự Bồ Tátđại chúng về đến chỗ Phật lễ chưn Phật xong ở qua một phía.

Trì Pháp Cự bạch Phật rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Phổ Hiền Như Lai thăm hỏi đức Thế Tôn ít bịnh ít não khởi cư khinh lợi an lạc hành chăng ? ».

Đức Phật phán bảo chúng hội : « Nầy đại chúng ! Văn Thù Sư LợiTrì Pháp Cự đây thần thông biến hóa trí huệ quang minh thành thục chúng sanh phụng sự chư Phật, tất cả Bồ Tát chẳng biết được biên tế trí huệ phương tiện thâm nhập của hai Chánh sĩ nầy. Các thiện nam tử phải nên học những thần thông trí huệ phụng sự chư Phật thành thục chúng sanh của Văn Thù Sư LợiTrì Pháp Cự cùng chư đại Bồ Tát . Chư Chánh sĩ nầy đã vô số kiếp từ một Phật độ đến một Phật độ thường làm Phật sự.

Nếu có chúng sanh nào nhập vào cảnh giới của chư Chánh sĩ Nầy thì đương lai chẳng còn đọa nơi ma giới ».

Đức Thế Tôn bảo Tôn giả A Nan : « Nầy A Nan ! Ông khéo thọ trì pháp môn nầy để chẳng dứt giống Tam bửu vậy ».

Bấy giờ Trì Pháp Cự Bồ Tát từ pháp hội dậy cùng các quyến thuộc trở về bổn quốc.

Đức Phật nói kinh nầy rồi, Thiện Đức Thiên Tử, Trưởng giả A Nan, tất cả thế gian Thiên Long Bát Bộ nghe lời Phật dạy đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.

PHÁP HỘI THIỆN ĐỨC THIÊN TỬ
THƯ BA MƯƠI LĂM
HẾT

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11650)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11974)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11125)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11362)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12082)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12574)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10779)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18000)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11738)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9963)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10188)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12362)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15359)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11260)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14341)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12122)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15384)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12015)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12426)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11197)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12098)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10630)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12568)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13181)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14854)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12705)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16589)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19680)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13118)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12676)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12276)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11869)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10910)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13550)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11967)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11854)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11648)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12780)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14532)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12629)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15672)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13639)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12915)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9885)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18029)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11186)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9093)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12194)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13072)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10324)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12208)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15329)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16619)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12231)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11497)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14282)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19717)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14163)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24625)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10705)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant