Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

46. Pháp Hội Văn Thù Thuyết Bát Nhã

01 Tháng Năm 201000:00(Xem: 9022)
46. Pháp Hội Văn Thù Thuyết Bát Nhã

KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XLVI
PHÁP HỘI VĂN THÙ THUYẾT BÁT NHÃ

THỨ BỐN MƯƠI SÁU

Hán Dịch: Nhà Lương, Pháp Sư Mạn Đà La Tiên
Việt Dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

 

Như vầy tôi nghe, một lúc đức Phật ở nước Xá Vệ tại Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên, cùng đại Tỳ Kheo Tăng ngàn người câu hội. Chúng đại Bồ Tát mười ngàn người dùng đại trang nghiêm để tự trang nghiêm đều đã an trụ bực bất thối chuyển. Danh hiệu các Ngài là : Di Lặc Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Vô Ngại Biện Bồ Tát, Bất Xả Thệ Bồ Tát v.v...làm thượng thủ.

Lúc minh tướng hiện, Văn Thù Sư Lợi Đồng Chơn Đại Bồ Tát từ chỗ Ngài ở đến chỗ đức Phật ngự đứng phía ngoài.

Bấy giờ các Tôn giả Xá Lợi Phất, Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử, Đại Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp, Ma Ha Ca Chiên Diên, Ma Ha Câu Si La v.v...chư đại Thanh Văn cũng từ chỗ các Ngài ở đến chỗ đức Phật ngự đứng phía ngoài.

Biết chúng hội đã vân tập, đức Như Lai từ chỗ Ngài ở bước ra trải tòa mà ngồi rồi bảo Tôn giả Xá Lợi Phất: “Hôm nay sáng sớm có cớ chi mà ông đến đứng ngoài cửa?”

Tôn giả Xá Lợi Phất bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Văn Thù Sư Lợi Đồng Chơn đại Bồ Tát đã đến trước đứng ngoài cửa, tôi thiệt đến sau vậy”.

Đức Phật bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Ông thiệt đến đứng đây trước muốn thấy Như Lai chăng?”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi thiệt đến trước muốn thấy đức Như Lai. Tại sao, vì tôi thích chánh quán lợi ích chúng sanh. Tôi quán đức Như Lai: là tướng như như, tướng bất dị, tướng bất động, tướng bất tác, tướng vô trụ, tướng bất diệt, tướng bất hữu, tướng bất vô, tướng chẳng tại phương chẳng ly phương, tướng phi tam thế phi bất tam thế, tướng phi nhị phi bất nhị, tướng phi cấu phi tịnh. Tôi chánh quán đức Như Lai như vậy lợi ích chúng sanh”.

Đức Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Nếu hay thấy Như Lai như vậy thì tâm vô sở thủ cũng vô bất thủ, chẳng phải tích tụ chẳng phải bất tích tụ”.

Tôn giả Xá Lợi Phất nói với Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Nếu người hay thấy đức Như Lai như vậy, như lời Ngài nói, thì rất hi hữu, vì các chúng sanh mà thấy đức Như Lai như vậy, nhưng tâm chẳng thủ tướng chúng sanh, hóa độ các chúng sanh hướng đến Niết bàn nhưng chẳng thủ tướng Niết bàn, vì tất cả chúng sanh phát đại trang nghiêm nhưng chẳng thấy tướng trang nghiêm”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói với Tôn giả Xá Lợi Phất: “Đúng vậy, như lời Ngài nói, dầu vì tất cả chúng sanh mà phát đại trang nghiêm, nhưng tâm hằng chẳng thấy có tướng chúng sanh. Vì tất cả chúng sanh phát đại trang nghiêm, nhưng chúng sanh giới cũng chẳng tăng chẳng giảm.

Giả sử một đức Phật trụ thế hoặc một kiếp hoặc quá một kiếp, một thế giới như vậy còn có vô lượng vô biên hằng hà sa chư Phật, mỗi mỗi đức Phật trong một kiếp hoặc quá một kiếp ngày đêm luôn thuyết pháp chẳng tạm ngừng, mỗi mỗi đức Phật độ được vô lượng hằng hà sa chúng sanh đều nhập Niết bàn, nhưng chúng sanh giới cũng chẳng tăng chẳng giảm. Nhẫn đến tất cả chư Phật mười phương thế giới cũng như vậy, mỗi mỗi đức Phật thuyết pháp giáo hóa cũng độ được vô lượng hằng hà sa chúng sanh đều nhập Niết bàn, nhưng chúng sanh giới chẳng tăng chẳng giảm. Tại sao, vì tướng chúng sanh nhứt định bất khả đắc vậy, thế nên chúng sanh giới bất tăng bất giảm”.

Tôn giả Xá Lợi Phất lại nói với Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Nếu chúng sanh giới chẳng tăng chẳng giảm, tại sao chư Bồ Tátchúng sanh cầu Vô thượng Bồ đề thường thuyết pháp cho họ?”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Nếu các chúng sanh đều là tướng không, thì cũng hkông Bồ Tát cầu Vô thượng Bồ đề, cũng không chúng sanh để vì họ thuyết pháp. Tại sao, vì trong pháp tôi nói không có một pháp khả đắc vậy”.

Bấy giờ đức Phật bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Nếu không có chúng sanh, tại sao nói có chúng sanhchúng sanh giới?”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Chúng sanh giới tướng như chư Phật giới”.

Đức Phật hỏi: “Chúng sanh giới đó là có lượng chăng?”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Chúng sanh giới lượng như chư Phật giới lượng”.

Đức Phật hỏi: “Chúng sanh giới lượng có xứ sở chăng?”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Chúng sanh giới lượng bất khả tư nghị”.

Đức Phật hỏi: “Chúng sanh giới tướng là có trụ chăng?”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Chúng sanh vô trụ, dường như hư không trụ”.

Đức Phật hỏi: “Như thế thì lúc tu Bát Nhã Ba la mật sẽ thế nào trụ Bát Nhã Ba la mật?”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Lấy bất trụ pháp làm trụ Bát Nhã Ba la mật”.

Đức Phật hỏi: “Lúc tru Bát Nhã Ba la mật như vậy, các thiện căn ấy thế nào tăng trưởng thế nào tổn giảm?”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Nếu có thể trụ Bát Nhã Ba la mật như vậy thì các thiện căn không tăng không giảm, nơi tất cả pháp cũng không tăng không giảm, tánh tướng của Bát Nhã Ba la mật ấy cũng không tăng không giảm.

Bạch đức Thế Tôn! Tu Bát Nhã Ba la mật như vậy thì chẳng xả phàm phu pháp cũng chẳng thủ Hiền Thánh pháp. Tại sao, vì Bát Nhã Ba la mật chẳng thấy có pháp khả thủ khả xả.

Tu Bát Nhã Ba la mật như vậy cũng chẳng thấy Niết bàn khả lạc sanh tử khả yểm. Tại sao, vì còn chẳng thấy sanh tử huống là chán nhàm, còn chẳng thấy Niết bàn huống là ưa thích.

Tu Bát Nhã Ba la mật như vậy chẳng thấy cấu não khả xả cũng chẳng thấy công đức khả lạc sanh tử khả yểm. Tại sao, vì còn chẳng thấy sanh tử huống là chán nhàm, còn chẳng thấy Niết bàn huống là ưa thích.

Tu Bát Nhã Ba la mật như vậy chẳng thấy cấu não khả xả cũng chẳng thấy công đức khả thủ. Tại sao, vì nơi tất cả pháp tâm không tăng giảm, vì chẳng thấy pháp giới có tăng giảm vậy.

Nếu được như vậy thì gọi là tu Bát Nhã Ba la mật.

Bạch đức Thế Tôn! Chẳng thấy các pháp có sanh có diệt là tu Bát nhã Ba la mật. Chẳng thấy các pháp có tăng có giảm là tu Bát Nhã Ba la mậtTâm không mong lấy chẳng thấy pháp tướng có khả thủ là tu Bát Nhã Ba la mật.

Chẳng thấy tốt xấu, chẳng sanh cao hạ, chẳng sanh lấy bỏ. Tại sao? Pháp không có tốt xấu vì rời lìa các tướng vậy. Pháp không có cao hạ vì bình đẳng pháp tánh vậy. Pháp khônglấy bỏ vì trụ thiết tế vậy. Đây là tu Bát Nhã Ba la mật”.

Đức Phật hỏi: “Các Phật pháp ấy được chẳng thù thắng ư?”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Tôi chẳng thấy các pháp có tướng thù thắngĐức Như Lai tự giác ngộ tất cả pháp không, có thể chứng biết”.

Đức Phật phán: “Đúng như vậy, Như Lai chánh giác tự chứng pháp không”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Bạch đức Thế Tôn! Trong pháp không ấy, sẽ có gì hơn chơn như để được chăng?”.

Đức Phật phán: “Lành thay, lành thay! Nầy Văn Thù Sư Lợi! Như chỗ ông nói đó là chơn pháp chăng?

Nầy Văn Thù Sư Lợi! A nậu đa la gọi là Phật pháp”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Như lời Phật nói, A nậu đa la gọi là Phật pháp. Tại sao, vì không có pháp để được gọi là A nậu đa la.

Tu Bát Nhã như vậy chẳng gọi là pháp khí, chẳng phải pháp hóa độ phàm phu, cũng chẳng phải Phật pháp, chẳng phải pháp tăng trưởng, đây gọi là tu Bát Nhã Ba la mật.

Lại nữa, bạch đức Thế Tôn! Lúc tu Bát Nhã Ba la mật chẳng thấy có pháp gì để phân biệt tư duy ư?”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Không vậy, bạch đức Thế Tôn! Như chỗ tôi tư duy thì chẳng thấy Phật pháp, cũng chẳng có gì phân biệt được là pháp phàm phu, là pháp Thanh Văn, là pháp Bích Chi Phật. Như thế ấy gọi là Vô thượng Phật pháp.

Lại nữa, lúc tu Bát Nhã Ba la mật chẳng thấy tướng phàm phu chẳng thấy tướng Phật pháp, chẳng thấy các pháp có tướng quyết định, đây là tu Bát Nhã Ba la mật.

Lại nữa, lúc tu Bát Nhã Ba la mật, chẳng thấy cõi Dục, chẳng thấy cõi Sắc, chẳng thấy cõi Vô Sắc, chẳng thấy cõi Tịch diệt. Tại sao, vì chẳng thấy có pháp gì là tướng tận diệt, đây là tu Bát Nhã Ba la mật.

Lại nữa, lúc tu Bát Nhã Ba la mật, chẳng thấy có người làm ơn, chẳng thấy có người báo ơn, tư duy hai tướng tâm khôngphân biệt, đây là tu Bát Nhã Ba la mật.

Lại nữa, lúc tu Bát Nhã Ba la mật chẳng thấy có Bát Nhã Ba la mật, cũng chẳng thấy có Phật pháp để lấy, chẳng thấy có pháp phàm phu để bỏ. Đây là tu Bát Nhã Ba la mật.

Lại nữa, lúc tu Bát Nhã Ba la mật, chẳng thấy có pháp phàm phu để diệt, cũng chẳng thấy có Phật pháptâm chứng biết. Đây là tu Bát Nhã Ba la mật”.

Đức Phật khen: “Lành thay, lành thay! Nầy Văn Thù Sư Lợi! Ông có thể khéo nói tướng Bát Nhã Ba la mật. Đó là pháp ấn được học của chư đại Bồ Tát. Nhẫn đến hàng Thanh Văn, Duyên Giác cũng sẽ chẳng rời lìa pháp ấn ấy mà tu đạo quả.

Nầy Văn Thù Sư Lợi! Nếu có người được nghe pháp ấy mà chẳng kinh sợ, người nầy chẳng phải chỉ trồng cội lành nơi ngàn đức Phật, mà họ đã ở nơi trăm ngàn vạn ức chư Phật gieo trồng các căn lành, nên họ mới có thể ở nơi thậm thâm Bát Nhã Ba la mật mà chẳng kinh chẳng sợ”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi muốn lại nói nghĩa Bát Nhã Ba la mật”.

Đức Phật phán bảo: “Ông nên nói đi”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Lúc tu Bát Nhã Ba la mật, chẳng thấy có pháp nào là nên an trụ, là chẳng nên an trụ, cũng chẳng thấy có tướng được thủ được xả nơi cảnh giới. Tại sao, vì như chư Phật chẳng thấy tướng cảnh giới của tất cả pháp. Cho đến còn chẳng lấy cảnh giới chư Phật, huống là lấy cảnh giới Thanh Văn, Duyên Giác, phàm phu.

Lúc tu Bát Nhã Ba la mật, chẳng lấy tướng tư nghị chẳng lấy tướng bất tư nghị, chẳng thấy pháp chư Phật có bao nhiêu tướng. Tự chứng pháp không chẳng thể tư nghị.

Đại Bồ Tát như vậy đều đã cúng dường trăm ngàn vạn ức chư Phật gieo trồng căn lành mới có thể chẳng kinh chẳng sợ nơi Bát Nhã Ba la mật thậm thâm nầy. 

Lại nữa, lúc tu Bát Nhã Ba la mật, chẳng thấy phược chẳng thấy giải, với phàm phu nhẫn đến tam thừa chẳng thấy tướng sai biệt. Đây là tu Bát Nhã Ba la mật”.

Đức Phật hỏi: “Nầy Văn Thù Sư Lợi! Ông đã cúng dường ở chỗ bao nhiêu chư Phật?”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Tôi và chư Phật như tướng huyễn hóa, chẳng thấy tướng cúng dường, chẳng thấy người nhận”.

Đức Phật hỏi: “Nay ông có thể chẳng đã an trụ Phật thừa ư?”

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Như chỗ tôi tư duy chẳng thấy có một pháp, thì thế nào sẽ được an trụ nơi Phật thừa”.

Đức Phật hỏi: “Ông chẳng được Phật thừa chăng?”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Như Phật thừa ấy chỉ có danh tự, chẳng thể được cũng chẳng thể thất, như vậy thì tôi làm sao được”.

Đức Phậi hỏi: “Ông được trí vô ngại chăng?”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Tôi chính là vô ngại. Sao lại đem vô ngại để được vô ngại?”.

 
Đức Phật hỏi: “Ông ngồi đạo tràng chăng?”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Tất cả chư Phật chẳng ngồi đạo tràng. Nay tôi sao lại riêng ngồi đạo tràng. Tại sao, vì hiện tại tôi thấy tất cả pháp an trụ thiệt tế”.

Đức Phật hỏi: “Thế nào gọi là thiệt tế?”

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Thân kiến v.v… là thiệt tế”.

Đức Phật hỏi: “Thế nào thân kiến là thiệt tế?”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Tướng như của than kiến chẳng phăe thiệt chẳng phải chẳng thiệt, chẳng đến chẳng đi, cũng là than, cũng là chẳng phải than, đây gọi là thiệt tế”.

Tôn giả Xá Lợi Phất bạch: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu ai ở nơi nghĩa ấy mà rõ chắc quyết định thì gọi là đại Bồ Tát. Tại sao, vì được nghe tướng Bát Nhã Ba la mật thậm thâm như vậy mà họ chẳng kinh sợ chẳng mê nghi”.

Di Lặc Bồ Tát bạch: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu được nghe pháp tướng Bát Nhã Ba La mật đầy đủ như vậy thì tức là gần chỗ đức Phật ngồi. Tại sao, vì đức Phật hiện giác ngộ pháp tướng ấy”.

 
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Bạch đức Thế Tôn! Người được nghe Bát Nhã Ba la mật thậm thâm mà có thể chẳng kinh sợ chẳng mê nghi, thì phải biết người ấy chính là thấy Phật”.

Lúc bấy giờ lại có Vô Tướng Ưu Bà di bạch: “Bạch đức Thế Tôn! Pháp phàm phu, pháp Thanh Văn, pháp bích Chi Phật, pháp Phật, các pháp ấy đều không có tướng, vì thế nên được nghe Bát Nhã Ba la mật đều không kinh sợ chẳng mê nghi. Tại sao, vì tất cả vốn không có tướng”.

Đức Phật bảo Tôn giả Xá Lợi Phât: “Nếu có thiện nam, thiện nữ nghe Bát Nhã Ba la mật thậm thâm như vậy mà được quyết định, chẳng kinh sợ chẳng mê nghi, thì nên biết người ấy chính là người an trụ bực Bất thối chuyển.

Nếu có người nghe Bát Nhã Ba la mật thậm thâm nầy mà chẳng kinh sợ, hay tinh ưa nghe nhận vui thích không chán, thì tức là có đủ Đàn Ba la mật, Thi la Ba la mật, Sằn đề Ba la mật, Tì lê gia Ba la mật, Thiền Ba la mậtBát Nhã Ba la mật. Người ấy cũng hay vì người khác mà hiển thị phân biệt như thuyết tu hành”.

Đức Phật bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát “Ông quán nghĩa gì là được Vô thượng Bồ đề,là an trụ Vô thượng Bồ đề?”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tạ bạch: “Tôi không có được Vô thượng Bồ đề, tôi chẳng an trụ Phật thừa, thì sao lại sẽ được Vô thượng Bồ đề? Như lời tôi nói đó tức là tướng Vô thượng Bồ đề vậy”.

Đức Phật khen: “Lành thay, lành thay! Nầy Văn Thù Sư Lợi! Ông có thể ở nơi pháp thậm thâm ấy mà khéo nói nghĩa như vậy Ông ở chỗ chư Phật trước từ lâu đã gieo các căn lành, dùng pháp vô tướng mà tịnh tu phạm hạnh”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Nếu thấy có tướng thì nói không tướng. Nay tôi chẳng thấy có tướng chẳng thấy không tướng, sao lại bảo là dùng pháp vô tướng mà tịnh tu phạm hạnh?”.

Đức Phật hỏi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Ông có thấy giới Thanh Vản chăng?”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Có thấy, bạch đức Thế Tôn!”.

 
Đức Phật hỏi: “Ông thấy thế nào?”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Tôi chẳng khởi thấy phàm phu, chẳng khởi thấy thánh nhơn, chẳng khởi thấy hữu học, chẳng khởi thấy vô học, chẳng khởi thấy lớn, chẳng khởi thấy nhỏ, chẳng khởi thấy điều phục, chẳng khởi thấy chẳng điều phục, chẳng phải thấy chẳng phải chẳng thấy”.

Tôn giả Xá Lợi Phật hỏi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Nay Ngài quán Thanh Văn thừa như vậy, với Phật thừa thì Ngài quán thế nào?”.

Văn Thù Sư Lợi nói: “Tôi chẳng thấy pháp Bồ Tát, chẳng thấy tu hành Bồ đề và người chứng Bồ đề”.

Tôn giả Xá Lợi Phật hỏi Vản Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Thế nào gọi là Phật, quán Phật thế nào?”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát hỏi Tôn giả Xá Lợi Phất: “Thế nào là ngã?”.

Tôn giả Xá Lợi Phất nói: “Ngã ấy chỉ có danh tự thôi. Tướng danh tự là không”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Đúng như vậy. Như ngã chỉ có danh tự, Phật cũng chỉ có danh tự, tướng danh tự là không, chính đó là Bồ đề. Chẳng đem danh tự để cầu Bồ đề

 
Tướng Bồ đề không có ngôn không có thuyết. Tại sao, vì ngôn thuyếtBồ đề cả hai đều không vậy.

Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Ngài hỏi thế nào gọi là Phật và quán Phật thế nào?

Chẳng sanh chẳng diệt chẳng đến chẳng đi, chẳng phải danh chẳng phải tướng, đây gọi là Phật.

Như tự quán than thiệt tướng, quán Phật cũng vậy, chỉ có bực trí mới biết được thôi, đây gọi là quán Phật”.

Bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất bạch đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Như Bát Nhã Ba la mật được Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đã nói, chẳng phải chỗ biết được của hang sơ học Bồ Tát”.

Văn thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Chẳng phải chỉ là hang sơ học Bồ Tát chẳng biết được, mà hàng Thanh Văn Duyên Giác, bực chỗ làm đã xong cũng chưa biết được. Thuyết pháp như vậy không có ai là người hay biết. Tại sao, và tướng Bồ đề thiệt ra không có pháp gì để được biết.

Bồ đề như vậy tánh tướng không tịch, không có thấy, không có nghe, không có được, không có niệm, không có sanh, không có diệt, 

không có thuyết, không có thính, không có chứng, không có biết, không có hình, không có tướng, như vậy thì làm sao lại sẽ có người được Bồ đề?”.

Tôn giả Xá Lợi Phất nói với Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Đức Phật ở nơi pháp giới chẳng chứng Vô thượng Bồ đề ư?”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Không vậy, thưa Ngài Xá Lợi Phất. Đức Thế Tôn tức là pháp giới. Nếu đem pháp giới để chứng pháp giới là tranh luận.

Thừa Ngài Xá Lợi Phất! Trong vô phân biệt thì không có người biết. Nếu không có người biết thì không có lời không có nói. 
Không có tướng ngôn thuyết thì là chẳng phải có chẳng phải không, chẳng biết chẳng phải chẳng biết. Tất cả các pháp cũng như vậy. Tại sao, vì tất cả các pháp chẳng thấy có chỗ nơi nào là tánh quyết định.

 
Như tướng của tội nghịch chẳng thể nghĩ bàn được, tại sao, vì thiệt tướng của các pháp chẳng thể hoại hư vậy. Tội nghịch như vậy cũng không có bổn tánh, nó chẳng sanh thiên thượng chẳng đọa địa ngục cũng chẳng nhập Niết bàn, tại sao, vì tất cả nghiệp duyên đều an trụ thiệt tế, chẳng đến chẳng đi, chẳng phải nhơn quả chẳng phải chẳng nhơn quả, tại sao, vì pháp giới vô biên không có tiền không có hậu.

Vì thế nên, nầy Ngài Xá Lợi Phất! Nếu thấy Tỳ Kheo phạm tội trọng chẳng đọa địa ngục, Tỳ Kheo thanh tịnh chẳng nhập Niết bàn, Tỳ Kheo như vậy chẳng phải ứng cúng chẳng phải chẳng ứng cúng, chẳng phải tận lậu chẳng phải chẳng tận lậu, tại sao, vì ở trong các pháp an trụ bình đẳng vậy”.

Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi: “Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Thế nào gọi là bất thối pháp nhẫn?”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Chẳng thấy chút pháp gì có tướng sanh diệt, gọi là bất thối pháp nhẫn”.

Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi: “Thế nào lại gọi là Tỳ Kheo chẳng điều phục?”.

 
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “A La Hán lậu tận gọi đó là chẳng điều phục, tại sao, vì A La Hán các kiết sử đã hết không còn có chỗ điều phục nên gọi là chẳng điều phục. Nếu người quá tâm hành thì gọi là phàm phu, tại sao, vì phàm phu chúng sanh chẳng thuận pháp giới nên gọi là quá”.

Tôn giả Xá Lợi Phật nói: “Lành thay, lành thay! Nay Ngài vì tôi mà khéo giải nghĩa A La Hán lậu tận”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Đúng như vậy. Tôi chính là lậu tận chơn A La Hán, tại sao, vì dứt ý muốn cầu Thanh Văn, cầu Bích Chi Phật, do đó mà gọi là lậu tận được A La Hán”.

Đức Phật hỏi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Chư Bồ Tát lúc ngồi đạo trànggiác ngộ Vô thượng Bồ đề chăng?”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Lúc ngồi đạo tràng Bồ Tát không có giác Vô thượng Bồ đề, tại sao, vì như tướng Bồ đề không có chút pháp gì để được gọi là Vô thượng Bồ đề. Bồ đề không có tướng, ai có thể ngồi được, cũng không có ai phát khởi, do đó nên chẳng thấy Bồ Tát ngồi đạo tràng cũng chẳng giác ngộ chứng Vô thượng Bồ đề.

Bạch đức Thế Tôn! Bồ đề tức ngũ nghịch, ngũ nghịch tức Bồ đề, tại sao, vì Bồ đềngũ nghịch không có hai tướng, không có giác không người giác, không có thấy không người thấy, không có biết không người biết, không có phân biệt không người phân biệt, tuớng như vậy gọi là Bồ đề. Thấy tướng ngũ nghịch cũng như vậy.

Nếu ai nói có Bồ đề thủ chứng, thì nên biết người ấy là hạng tăng thượng mạn”.

Đức Phật hỏi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Ông nói ta là Như Lai, ông cũng cho rằng ta làm Như Lai chăng?”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Không vậy, bạch đức Thế Tôn! Tôi chẳng cho rằng Như Lai làm Như Lai. Không có tướng như có thể gọi được là như, cũng không có Như Lai trí để có thể biết được như, tại sao, vì Như LaiNhư Lai, chỉ có danh tự thôi, như thế thì tôi sẽ như thế nào gọi là Như Lai”.

Đức Phật bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Ông nghi ngờ Như Lai chăng?”.

 
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Không vậy, bạch đức Thế Tôn! Tôi quán Như Lai không có tánh quyết định, không có sanh không có diệt, thế nên không nghi”.

Đức Phật bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Nay ông chẳng cho rằng Như Lai xuất hiện nơi đời chăng?”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Nếu có Như Lai xuất hiện nơi đời thì tất cả pháp giới cũng phải xuất hiện cả”.

Đức Phật hỏi: “Ông cho rằng hằng sa chư Phật nhập Niết bàn chăng?”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Chư Phật là tướng duy nhứt tướng chẳng thể nghĩ bàn”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Nay Phật trụ thế chăng?”

Đức Phật phán: “Đúng như vậy”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Nếu đức Phật trụ thế thì hằng sa chư Phật cũng phải trụ thế. Tại sao, vì tất cả chư Phật đều đồng tướng duy nhứt tướng chẳng thể nghĩ bàn”.

Đức Phật phán: “Đúng như vậy. Chư Phật là tướng duy nhứt tướng chẳng thể nghĩ bàn?”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch Phật
“Bạch đức Thế Tôn! Nay Phật trụ thế chăng?”.

Đức Phật phán: “Đúng như vậy”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Nếu đức Phật trụ thế thì hằng sa chư Phật cũng phải trụ thế. Tại sao, vì tất cả chư Phật đều đồng tướng duy nhứt tướng chẳng thể nghĩ bàn. Tướng

chẳng thể nghĩ bàn ấy không có sanh không có diệt.

Nếu vị lai Phật xuất thế thì tất cả chư Phật cũng phải đều xuất thế. Tại sao, vì trong tướng chẳng thể nghĩ bàn ấy không có tướng quá khứ, vị lai, hiện tại, chỉ do chúng sanh thủ trước cho rằng có xuất thế, có diệt độ”.

Đức Phật phán: “Đây là chỗ hiểu biết của chư Như Lai, chư A La Hán, chư Bồ Tát bất thối. Tại sao, vì ba hạng nầy nghe pháp thậm thâmthể không phỉ bang cũng chẳng tán than”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Tướng bất tư nghì như vậy, ai sẽ phỉ bang, ai sẽ tán than”.

Đức Phật phán: “Như Lai bất tư nghị, phàm phu cũng bất tư nghị”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Phàm phu cũng bất tư nghị chăng?”.

Đức Phật phán: “Phàm phu cũng bất tư nghị. Tại sao? Vì tất cả tâm tướng đều bất tư nghị”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Nếu như lời nói ấy: Như Lai bất tư nghị phàm phu cũng bất tư nghị, thì nay vô số chư Phật cầu đại Niết bàn luống tự nhọc nhằn. Tại sao, vì 

pháp bất tư nghị tức là đại Niết bàn bình đẳng không có khác vậy.

Phàm phu bất tư nghị, chư Phật bất tư nghị như vậy, những thiện nam, thiện nữ lâu huân tập thiện căn gần thiện tri thức mới có thể biết được”.

Đức Phật phán: “Ông muốn đức Như Lai là bực tối thắng nơi các chúng sanh chăng?”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Tôi muốn đức Như Lai ở nơi các chúng sanhtối thắng đệ nhứt, chỉ vì tướng chúng sanh cũng bất khả đắc”.

Đức Phật phán: “Ông muốn đức Như Lai được pháp bất tư nghị chăng?”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Muốn cho đức Như Lai được pháp bất chư nghị mà nơi các pháp không kẻ thành tựu”.

Đức Phật phán: “Ông muốn khiến đức Như Lai thuyết pháp giáo hóa chăng?”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Muốn khiến đức Như Lai thuyết pháp giáo hóa mà người thuyết người thính đều bất khả đắc, tại sao, vì an trụ pháp giới vậy. Pháp giới chúng sanh không có tướng sai biệt”.

 
Đức Phật phán: “Ông muốn đức Như Lai làm phước điền vô thượng chăng?”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Đức Như Laiphước điền vô tận, là tướng vô tận, tướng vô tậnphước điền vô thượng, chẳng phải phước điền chẳng phải chẳng phước điền. Đây gọi là phước điền, không có các tướng sáng tối sanh diệt đây gọi là phước điền. Nếu có thể hiểu biết tướng phước điền như vậy là sâu gieo giống lành, nhưng cũng không có tăng không có giảm”.

Đức Phật phán: “Thế nào là gieo giống không có tăng không có giảm?”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Tướng phước điền chẳng thể nghĩ bàn, nếu ngưới ở trong ấy mà tu tập pháp lành đúng pháp thì cũng chẳng thể nghĩ bàn. Gieo giống như vậy thì gọi là không có tăng không có giảm, cũng là phước điền tối thắng vô thượng”.

Bấy giờ do thần lực của đức Phậg, cả đại địa chấn động sáu cách hiện ra tướng vô thường, có một vạn sáu ngàn người được vô sanh pháp nhẫn, có bảy trăm Tỳ Kheo, ba ngàn Ưu Bà Tắc, bốn vạn ức Ưu Bà Di, sáu vạn ức na do tha chư Thiên cõi Dục đều xa trần lìa cấu ở trong các pháp được pháp nhãn thanh tịnh.

Tôn giả A Nan đứng dậy trịch y vai hữu gối hữu chấm đất bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Do nhơn duyên gì mà có sáu cách chấn động ấy?”.

Đức Phật phán: “Nầy A Nan! Vì ta nói tướng vô sai biệt của phước điền nên hiện thoại ứng ấy. Thuở xưa, chư Phật cũng ở tại chỗ nầy nói tướng điền làm lợi ích cho chúng sanh và tất cả thế gian chấn động sáu cách”.

Tôn giả Xá Lợi Phất bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Ngài Văn Thù Sư Lợi thật là chẳng thể nghĩ bàn. Tại sao, vì pháp tướng được Ngài nói đó chẳng thể nghĩ bàn”.

Đức Phật phán bảo Vản Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Đúng như vậy, như lời Xá Lợi Phất nói, sở thuyết của ông thiệt chẳng thể nghĩ bàn”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Bạch đức Thế Tôn! Bất tư nghị chẳng thẻ nói được mà tư nghị cũng chẳng thẻ nói được. Tánh tư nghị và bất tư nghị đều chẳng thể nói được. Tướng của tất cả âm thanh chẳng phải tư nghị cũng chẳng phải chẳng thể tư nghị”.

Đức Phật phán: “Ông nhập tam muội bất tư nghị chăng?”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Không vậy. Bạch đức Thế Tôn! Tôi tức là bất tư nghị, chẳng thấy có tâm hay tư nghị thì sao lại bảo là nhập tam muội bất tư nghị. Lúc tôi phát tâm ban đầu, tôi muốn nhập tam muội ấy. Mà nay tôi tư duy thiệt không có tâm tướng để nhập tam muội. Như người học bắn tập lâu thì giỏi. Lúc sau dầu vô tâm mà vì đã quen tập từ lâu nên buông tên ra đều trúng đích.

Cũng vậy, lúc ban đầu tôi học tam muội bất tư nghị, buộc tâm một cảnh duyên, luyện tập thành thục rồi không còn có tâm tướng mà hằng cùng chung với tam muội”.

Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Còn có định thắng diệu tịch diệt nữa chăng?”

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Nếu có định bất tư nghị thì Ngài có thể hỏi còn có định tịch diệt chăng? Cứ như ý tôi hiểu thì định bất tư nghị còn bất khả đắc, sao lại hỏi có định tịch diệt ư”.

Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi: “Định bất tư nghị chẳng thể có được ư?”

 

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Định tư nghị có tướng để được, định bất tư nghị không có tướng để được. Tất cả chúng sanh thiệt thành tựu định bất tư nghị, tại sao, vì tất cả tâm tướng tức chẳng phải tâm vậy, đây gọi là định bất tư nghị. Do đây nên tướng tất cả chúng sanh và tướng định bất tư nghị đồng nhau không sai biệt”.

Đức Phật khen Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Lành thay, lành thay! Ở chỗ chư Phật ông từ lâu đã trồng căn lành tịnh tu phạm hạnh, ông mới hay diễn nói tam muội thậm thâm. Nay ông an trụ trong Bát Nhã Ba la mật như vậy”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Nếu tôi an trụ trong Bát Nhã Ba la mật hay nói những lời ấy thì tức là có tưởng bèn an trụ ngã tưởng cũng gọi là xứ sở. Rời lìa hai nơi ấy mà an trụ không chỗ an trụ, như chư Phật an trụ an xử cảnh giới tịch diệt bất tư nghịBất tư nghị ấy gọi là Bát Nhã Ba la mật trụ xứ. Bát nhã Ba la mật trụ xứ, tất cả phap không có tướng, tất cả pháp không có tác. Bát Nhã Ba la mật tức là bất tư nghị, bất tư nghị tức pháp giới, pháp giới tức vô tướng, vô tướng tức bất tư nghị, bất tư nghị tức Bát Nhã Ba la mật, Bát Nhã Ba la mật tức pháp giới, không hai không khác, không hai không khác tức pháp giới, pháp giới tức vô tướng, vô tướng tức Bát Nhã Ba la mật giới, Bát Nhã Ba la mật giới tức bất tư nghị giới, bất tư nghị giới tức vô sanh vô diệt giới, vô sanh vô diệt giới tức bất tư nghị giới.

Bạch đức Thế Tôn! Như Lai giới và ngã giới tức là tướng bất nhị. Người tu Bát Nhã Ba la mật như vậy thì chẳng cầu Bồ đề, tại sao, vì Bồ đề tướng ly tức là Bát Nhã Ba la mật vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu biết ngã tướng mà chẳng nhiễm trước, không biết không trước là chỗ biết của Phật chẳng thể nghĩ bàn. Không biết không trước là chỗ biết của Phật, tại sao, vì thể tánh của biết vốn không có tướng thì làm sao có biết có trước. Nếu boển tánh của biết không có tướng không có trước thì gọi là không có vật. Nếu không có vật là không xứ sở không có chỗ y không có chỗ trụ. Không y không trụ là không sanh không diệt. Nếu không sanh không diệt thì là công đức hữu vivô vi.

 

Nếu biết như vậy thì không có tâm tưởng. Đã không tâm tưởng thì không có biết công đức hữu vi vô vi. Vì thế nên không biết ấy là bất tư nghịBất tư nghị ấy là chỗ biết của Phật.

Cũng không có thủ không có chẳng thủ, chẳng thấy tướng tam thế khứ lai, chẳng thủ lấy sanh diệt và những khởi tác, cũng chẳng đoạn chẳng thường. Biết như vậy thì gọi là chánh trí, là bất tư nghị trí, như hư không, không có thử không có bỉ, chẳng gì so sánh được, không có tốt xấu, không ngang bằng, không có tướng không có mại.

Đức Phật phán: “Nầy Văn Thù Sư Lợi! Nếu biết như vậy thì gọi là trí bất thối chuyển”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Trí vô tác gọi là trí bất thối chuyểnVí như quặng vàng, trước hết phải đập luyện rồi mới biết là vàng tốt xấu. Nếu chẳng nung đập thì không biết được.

Tướng của trí bất thối chuyển cũng như vậy, cần phải đi nơi cảnh giới mà chẳng niệm chẳng trước, không khởi không tác, hoàn toàn bất động, bất sanh bất diệt, như vậy tướng ấy mới hiển hiện”.

 

Đức Phật bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Như chư Phật tự nói trí của mình thì ai có thể tin?”

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: “Trí ấy chẳng phải pháp Niết bàn chẳng phải pháp sanh tử, là hạnh tịch diệt, là hạnh vô động, chẳng dứt tham sân si cũng chẳng phải chẳng dứt tham sân si, tại sao, vì vô tận vô diệt vậy, chẳng lìa sanh tử, cũng chẳng phải chẳng lìa, chẳng tu đạo hạnh cũng chẳng phải chẳng tu. Người hiểu như đây thì gọi là chánh tín”.

Đức Phật bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Lành thay, lành thay! Như lời ông nói là hiểu sâu nghĩa ấy”.

Lúc ấy Tôn giả Ma Ha Ca Diếp bạch đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Đời sau nếu có nơi chánh pháp thậm thâm như vậy thì ai có thể tin hiểu lãnh nhận tu hành?”

Đức Phật phán: “Nay trong pháp hội nầy chư Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, những người được nghe kinh nầy, trong đời vị lai, nếu được nghe pháp nầy thì họ quyết có thể tin hiểu, ở nơi Bát Nhã Ba la mật thậm thâm họ có thể tin hiểu thọ trì, và cũng có thể vì mọi ngườigiải thuyết phân biệt

Ví như Trưởng giả đánh mất châu ma ni lo rầu khổ sở, về sau được lại ông rất vui mừng. Cũng vậy, nầy Đại Ca Diếp! Chư Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di nầy có tâm tin ưa nếu chẳng được nghe thâm pháp thì lòng khổ não, nếu lúc được nghe thì tin hiểu thọ trì thường thích đọc tụng lòng rất vui mừng. Phải biết những người ấy tức là đã thấy Phật, cũng tức là thân cận cúng dường chư Phật.

Nầy Đại Ca Diếp! Ví như Thiên Đao Lợi thấy cây ba lợi chất đa la nẩy nụ, họ rất vui mừng vì biết chẳng bao lâu cây sẽ trổ hoa. Cũng vậy, nếu chư Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di được nghe Bát Nhã Ba la mật mà có thể sanh lòng tin hiểu thì chẳng bao lâu sẽ nẩy nở tất cả Phật pháp.

Trong đời tương lai, có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di nghe Bát Nhã Ba la mật tin nhận đọc tụng lòng chẳng mê nghi, thì phải biết người ấy đã từng ở tại pháp hội nầy được nghe thọ kinh ấy rồi và cũng hay vì người khác mà rộng tuyên lưu bố. Nên biết người ấy được Phật hộ niệm.

Trong Bát Nhã Ba la mật thậm thâm như vậy, ai có thể tin ta không nghi hoặc, người nầy đã tu học, trồng các căn lành từ lâu nơi chư Phật quá khứ.

Ví như có người tự tay xỏ châu bỗng gặp bảo châu chơn ma ni vô thượng lòng rất mừng rỡ, phải biết người ấy đã từng thấy bảo châu rồi. Cũng vậy, nầy Đại Ca Diếp! Nếu thiện nam, thiện nữ tu học các pháp khác, bỗng được nghe Bát Nhã Ba la mật thậm thâm mà hay sanh lòng vui mừng, nên biết người nầy trước đã được nghe rồi. Nếu có chúng sanh nghe Bát Nhã Ba la mật thậm thâmhay tin nhận lòng rất vui mừng, những chúng sanh nầy cũng đã thân cận vô số chư Phật và đã được nghe được tu học Bát Nhã Ba la mật.

Ví như có người trước đã đến và thấy thành ấp tụ lạc, lúc sau nghe có ai khen thuật thành ấp đó những vườn tược, ao suối, rặng cây, bông trái, nhơn dân đều đáng ưa mến, người ấy nghe xong rất vui mừng khuyên khiến thuật lại các cảnh đẹp của thành đó, người ấy nghe rồi lại càng vui mừng hơn, đây là vì các người ấy đã từng thấy thành ấp đó rồi vậy. Cũng thế, nếu thiện nam thiện nữ được nghe Bát Nhã Ba la mậthay tin nhận lòng rất vui mừng thích nghe chẳng nhàm còn khuyên nói nữa, nên biết các người ấy đã theo Văn Thù Sư Lợi nghe Bát Nhã Ba la mật thậm thâm vậy”.

Tôn giả Ma Ha Ca Diếp bạch đức Phật: “Nếu đời đương laithiện nam, thiện nữ được nghe Bát nhã Ba la mật thậm thâm nầy mà tin ưa nhận lấy, do đây nên biết họ cũng đã ở nơi Phật quá khứ, được nghe và tu học rồi”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch đức Phật: “Đức Thế Tôn nói các pháp vô tác vô tướng đệ nhứt tịch diệt. Nếu thiện nam thiện nữ hay hiểu chắc nghĩa ấy, đúng như chỗ được nghe mà giải thuyết thì được chư Phật khen ngợi chẳng xa pháp tướng, tức là lời Phật nói, cũng là tướng Bát Nhã Ba la mật phát mạnh, đầy đủ Phật pháp, thông đạt thiệt tướng bất tư nghị”.

Đức Phật phán bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Thuở ta hành đạo Bồ Tát tu các căn lành muốn an trụ bực bất thối chuyển phải học Bát Nhã Ba la mật, muốn thành Vô thượng Bồ đề phải học Bát Nhã Ba la mật.

Nếu thiện nam, thiện nữ muốn hiểu tất cả pháp tướng, muốn biết tâm hành của tất cả chúng sanh thảy đều đồng đẳng, thì họ phải học Bát Nhã Ba la mật.

 
Nầy Văn Thù Sư Lợi! Người muốn học tất cả Phật pháp, đầy đủ vô ngại thì phải học Bát Nhã Ba la mật. Người muốn học theo lúc đức Phật thành Vô thượng Chánh giác đủ tướng hảo oai nghi vô lượng pháp thức thì phải học Bát Nhã Ba la mật. Người muốn biết chư Phật chẳng thành Bồ đề Vô thượng tất cả pháp thức và các oai nghi thì phải học Bát Nhã Ba la mật, tại sao, vì trong pháp không ấy, chẳng thấy có chư Phật Bồ đề vậy.

Nếu người muốn biết các pháp tướng như vậy mà không nghi hoặc thì phải học Bát Nhã Ba la mật, tại sao, vì Bát Nhã Ba la mật chẳng thấy các pháp hoặc sanh hoặc diệt, hoặc cấu hoặc tịnh.

Người muốn biết tất cả các pháp không có tất cả các pháp không có các tướng quá khứ, vị lai, hiện tại thì phải học Bát Nhã Ba la mật, tại sao, vì tánh tướng pháp giới không tam thế vậy.

Người muốn biết tất cả pháp đồng nhập pháp giới tâm vô chướng ngại thì phải học Bát Nhã Ba la mật.

Người muốn tam chuyển thập nhị hành pháp luân cũng tự chứng biết mà chẳng thủ trước thì phải học Bát Nhã Ba la mật.

 
Người muốn được từ tâm che khắp tất cả chúng sanh không giới hạn, cũng chẳng tưởng nghĩ có tướng chúng sanh, thì phải học Bát Nhã Ba la mật.

Người muốn được đối với tất cả chúng sanh không phát khởi tranh luận cũng chẳng nắm lấy tướng không tranh luận thì phải học Bát Nhã ba la mật.

Người muốn biêt thị xứ phi xứ người trí lực, bốn vô sở uý, an trụ Phật trí huệ được vô ngại biện, thì phải học Bát Nhã Ba la mật”.

Bấy giờ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch đức Phật: “Tôi quán chánh pháp: vô vi, vô tướng, vô đắc, vô lợi, vô sanh, vô diệt, vô lai, vô khứ, không tri giả, không khiến giả, không tác giả, chẳng thấy Bát Nhã Ba la mật cũng chẳng thấy cảnh giới Bát Nhã Ba la mật, chẳng phải chứng, chẳng phải chẳng chứng, chẳng hí luận, không phân biệt, tất cả pháp vô tận, ly tận, không có pháp phàm phu, không có pháp Thanh Văn, không có pháp Bích Ci Phật, không có pháp Phật, chẳng phải đắc chẳng phải chẳng đắc, chẳng bỏ sanh tử chẳng chứng Niết bàn, chẳng phải tư nghị chẳng phải bất tư nghị, chẳng phải tác chẳng phải bất tác.

 
Pháp tướng như vâỵ, chẳng biết phải học Bát Nhã Ba la mật thế nào?”

Đức Phật phán dạy Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Nếu có thể biết được pháp tướng như vậy, thì gọi là học Bát Nhã Ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát muốn học Bồ đề tự tại tam muội, được tam muội ấy rồi chiếu rõ tất cả Phật pháp thậm thâm và biết danh tự của tất cả chư Phật, cũng biết rõ cả thế giới chư Phật không chướng ngại, thì nên đúng như trong lời Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói về Bát Nhã Ba la mật mà học”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Cớ gì gọi là Bát Nhã Ba la mật?”

Đức Phật phán dạy: “Bát Nhã Ba la mật: Không danh, không tướng, vô biên, vô tế, chẳng phải tư lương, không nương, không về, không nơi, không chỗ, không tội, không phuớc, không tối, không sáng, như pháp giới không có phần ngằn, không có hạn số. Đây gọi là Bát Nhã Ba la mật, cũng gọi là chỗ sở hành chẳng phải hành xứ chẳng phải chẳng hành xứ của đại Bồ Tát. Đều vào nhứt thừa nên gọi là chẳng phải hành xứ, tại sao, vì vô niệm vô tác vậy”.

 
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Phải hành thế nào để có thể mau được Vô thượng Bồ đề?”.

Đức Phật phán dạy: “Nầy Văn Thù Sư Lợi! Hành đúng như lời nói trong Bát Nhã Ba la mật thì có thể mau được Vô thượng Bồ đề.

Còn có nhứt hạnh tam muội, người tu tam muội nầy thì cũng mau được Vô thượng Bồ đề”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào gọi là nhứt hạnh tam muội?”

Đức Phật phán dạy: “Nầy Văn Thù Sư Lợi! Pháp giới nhứt tướng, nếu chuyên tâm duyên pháp giới, đây gọi là nhứt hạnh tam muội”.

Nếu thiện nam, thiện nữ muốn vào nhứt hạnh tam muội, phải trước nghe Bát Nhã Ba la mật rồi tu học đúng như lời, sau đó có thể vào nhứt hạnh tam muội, tâm duyên pháp giới chẳng thối chẳng hoại bất tư nghị vô ngại vô tướng.

Thiện nam, thiện nữ muốn vào nhứt hạnh tam muội, người nầy phải ở vắng vẻ rảnh rang, bỏ ý tưởng tán loạn, tâm chẳng nắm giữ tướng mạo, buộc chặt tâm tưởng vào một đức Phật rồi chuyên xưng danh hiệu của đức Phật ấy theo phương hướng của đức Phật ấy ngự mà ngồi ngay thẳng mặt hướng về phía ấy.

Có thể ở một đức Phật mà niệm nối nhau không gián đoạn, thì liền trong niệm ấy thấy được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại.

Tại sao? Vì niệm một đức Phật, công đức vô lượng vô biên, cùng niệm vô lượng chư Phật, công đức cũng không khác. Bất tư nghị Phật pháp bình đẳng không phân biệt. Chư Phật đều thừa nhất như mà thành bực Tối Chánh Giác, đều đủ vô lượng công đức, vô lượng biện tài.

Người nhập nhứt hạnh tam muội như vây biết hết tướng pháp giới vô sai biệt của hằng sa chư Phật.

A Nan Đà nghe Phật pháp được niệm tổng trì, trí huệ biện tài dầu là hơn hết trong hàng Thanh Văn mà còn có số lượng có hạn ngại.

Nếu được nhứt hạnh tam muội thì ở nơi pháp môn của các kinh, tất cả đều rành rẽ biết rõ quyết định vô ngại, trí huệ biện tài trọn không đoạn tuyệt. Nếu đem biện tài đa văn của A Nan Đà để so sánh thì không bằng một phần trăm một phần ngàn.

Đại Bồ Tát nên nghĩ như vầy: tôi phải thế nào để được nhứt hạnh tam muội công đức bất khả tư nghị danh xưng vô lượng? Rồi lại nghĩ: như đức Phật đã dạy, đại Bồ Tát phải ghi nhớ nhứt hạnh tam muội thường chuyên tinh tiến không giải đãi, theo thứ đệ như vậy mà lần lần tu học, thì có thể được nhập nhứt hạnh tam muội chứng được công đức bất khả tư nghị. Trừ người phỉ báng chánh pháp chẳng tin nhơn quả phạm tội chướng nặng thì không thể nhập được.

Lại nầy Văn Thù Sư Lợi! Ví như có người được châu ma ni đưa cho thợ ngọc xem. Thợ ngọc bảo rằng đây thật là vô giá bảo châu ma ni. Người ấy yêu cầu thợ ngọc giũa giồi chớ để mất màu và ánh sáng. Thợ ngọc trau giồi bửu châu màu sáng chiếu suốt trong ngoài. Cũng vậy, nếu có thiện nam thiện nữ tu học nhứt hạnh tam muội công đức bất khả tư nghị danh xưng vô lượng, tùy lúc tu học biết được các pháp tướng sáng suốt vô ngại công đức tăng trưởng cũng như vậy.

Lại nầy Văn Thù Sư Lợi! Như mặt trời ánh sáng đầy khắp không có tướng tối tắt. Nếu người được nhứt hạnh tam muội thì có thể đầy đủ tất cả công đức kh ông thi ếu k ém, chiếu sáng Phật Pháp như ánh sáng mặt trời.
Này Văn Thu Sư Lợi ! Pháp được ta nói đều là một vị là vị ly , vị giải thoát, vị tịch diệt.

Nếu thiện nam từ, thiện nữ nhân được nhất hạnh tam muộI này thì pháp của họ diễn nói cũng là nhất vị. Là vị ly, vị giảI thoát, vị tịch diệt, tùy thuận chánh pháp không có tướng sai lầm.

Này văn thù sư lợI ! Nếu đạI bồ tát được nhứt hạnh tam muộI này thì đều đầy đủ cả pháp trợ đạo mau được Vô thượng bồ đề.

LạI này văn thù sư lợI ! Nếu đại bồ tát chẳng thấy pháp giớI có tánh có tướng sai biệt có tướn đồngnhứt thì mau được vô thượng bồ đề , tướng bất khả tư nghị. Trong bồ đề ấy cũng không có đắc Phật. NgườI biết như vậy thì mau được Vô thượng Bồ đề.

Nếu ngườI tin tất cả pháp đều là Phật Pháp , chẳng kinh sợ chẳng nghi hoặc, rõ biết như vậy thì mau được Vô Thượng Bồ Để.

Văn thù ssu lợI bồ tát bạch đức Phật : « Bạch đức Thế Tôn Do nơi nhơn như vậy mà mau được Vô thượng Bồ đề ư ? ».

 
Đức Phật phán dạy : « Này Văn thù Sư Lợi Được vvô thượng bồ đề chẳng do nhơn mà được chẳng do phi nhơn mà được. TạI sao ? vì bất tư nghị giớI chẳng do nhơn được chẳng do phi nhơn đuợc.

Nếu thiện nam , thiện nử nghe thuyết pháp như vậy mà chẳng sanh giảI đãi, nên biết ngườI ấy do đã gieo trồng căn lành nơi chư Phật đờI trước.

Vì thế nên Tỳ kheo, Tỳ kheo ni nghe nói Bát Nhã Ba La mật thậm thâm này mà chẳng kinh sợ thì tức là theo Phật xuất gia. Nếu ưu bà Tắc Ưu bà di được nghe Bát Nhã Ba La Mật thậm thâm này mà không kinh sợ thì tức là thì tức là thành tựu chỗ quy y chơn thật.

Này văn thù sư lợI Nếu thiện nam thiện nữ chẳng học tập bátnhã ba la mật thậm thâm thì tức là chẳng tu Phật Thừa.

Ví như tất cả cây thuốc đều nương nơi đạI địa mà sanh trưởng. Cũng vậy, đạI bồ tát đều nương nơi bát nhã ba la mậttăng trưởng các thiện căn , chẳng trái vớI vô thượng bồ đề”.

Văn thù sư lợI bồ tát bạch đức Phật: “ Bạch đức thế tôn Trong những thành ấp tụ lạc của Diêm Phù Đề nầy, nên ở nơi nào để diễn nói Bát Nhã Ba la mật thậm thâm như vậy?”

Đức Phật phán dạy: “Nầy Văn Thù Sư Lợi! Trong pháp hội nầy, nếu có người nghe Bát Nhã Ba la mật đều phát thệ rằng: Đời vị lai tôi thường được tương ưng với Bát Nhã Ba la mật. Do sự tin hiểu ấy mà trong đời vị lai được nghe kinh nầy.

Nên biết người nầy chẳng trong căn lành nhỏ mà đến, có thể kham thọ kinh nầy, được nghe rồi thì vui mừng.

Nầy Văn Thù Sư Lợi! Nếu lại có người theo ông nghe Bát Nhã Ba la mật nầy, nên nói như vầy: Trong Bát Nhã Ba la mật đây không có những pháp Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát, Phật pháp, cũng không có các pháp phàm phu sanh diệt”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu BÀ Di đến hỏi tôi đức Như Lai nói Bát Nhã Ba la mật thế nào? Tôi sẽ đáp rằng tất các pháp không có tướng tranh luận, làm sao đức Như Lai nói Bát Nhã Ba la mật. Tại sao? Vì chẳng thấy có pháp cùng tranh luận được, cũng không có tâm thức chúng sanh để biết được.

Bạch đức Thế Tôn! Tôi sẽ còn nói cứu cánh thiệt tế. Tại sao? Vì tất cả pháp đồng nhập vào thiệt tế vậy.

A La Hán không có pháp thù thắng riêng biệt, vì pháp A La Hán và pháp phàm phu không đồng không khác vậy.

Lại nữa, bạch đức Thế Tôn! Thuyết pháp như vậy thì không có chúng sanh đã được Niết bàn, cũng không có sẽ được và đang được Niết bàn. Tại sao, vì không có tướng chúng sanh quyết định vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu có người muốn nghe Bát Nhã Ba la mật, tôi sẽ nói như vầy:

Người nghe pháp ấy, chẳng nhớ, chẳng ham, chẳng nghe, chẳng được. Phải như là huyễn nhơn không có phân biệt.

Thuyết pháp như vậy là chơn thuyết pháp. Thế nên thính giả chớ thấy có hai tướng, chẳng bỏ các kiến chấp, mà tu Phật pháp.

Người tu Phật pháp chẳng lấy Phật pháp chẳng bỏ pháp phàm phu. Tại sao? Vì Phật và phàm phu hai pháp tướng không, không có thủ xả vậy.

Nếu có người hỏi tôi, tôi sẽ giảng thuyết như vậy, an ủi như vậy, kiến lập như vậy. Thiện nam thiện nữ phải hỏi như vậy, an trụ như vậy thì tâm không thối lui hư mất. Phải biết pháp tướng rồi tùy thuận Bát Nhã Ba la mật mà giảng thuyết”.

Đức Phật khen Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Lành thay lành thay! Đúng như lời Văn Thù Sư Lợi nói.

Nếu thiện nam, thiện nữ muốn thấy chư Phật thì phải học Bát nhã Ba la mật như vậy. Muốn thân cận chư Phật và như pháp cúng dường thì phải học Bát Nhã Ba la mật như vậy. Nếu muốn nói đức Như LaiThế Tôn của tôi thì phải học Bát Nhã Ba la mật như vậy. Nếu nói đức Như Lai chẳng phải Thế Tôn của tôi cũng phải học Bát Nhã Ba la mật như vậy. Nếu muốn thành Vô thượng Bồ đề cũng phải học Bát Nhã Ba la mật như vậy. Nếu muốn chẳng thành Vô thượng Bồ đề cũng phải học Bát nhã Ba la mật như vậy. Nếu muốn thành tựu tất cả tam muội phải học Bát Nhã Ba la mật nhu vậy. Nếu muốn chẳng thành tự tất cả tam muội cũng phải học Bát Nhã Ba la mật như vậy, tại sao? Vì vô tác tam muội không có tướng dị biệt vậy, vì tất cả pháp không sanh không xuất vậy.

Nếu muốn biết tất cả pháp giả danh thì phải học Bát Nhã Ba la mật như vậy. Nếu muốn biết tất cả chúng sanh tu đạo Bồ đề chẳng cầu tướng Bồ đề tâm chẳng thối lui hư mất thì phải học Bát Nhã Ba la mật như vậy. Tại sao, vì tất cả pháp đều là tướng Bồ đề vậy.

Nếu muốn biết tất chúng sanh hành tướng phi hành, phi hành tức là Bồ đề, Bồ đề tức pháp giới, pháp giới tức thiệt tế, tâm chẳng thối lui hư mất, thì phải học Bát Nhã Ba la mật như vậy.

Nếu muốn biết tất cả Như Lai thần thông biến hóa vô tướng vô ngại cũng không có phương sở, thì phải học Bát Nhã Ba la mật như vậy”.

Đức Phật phán bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “Nếu có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di muốn chẳng bị đọa ác thú thì phải học Bát Nhã Ba la mật một bài kệ bốn câu thọ trì đọc tụng vì người mà giải thuyết tùy thuận thiệt tướng. Nên biết người ấy quyết định được Vô thượng Bồ đề an trụ Phật quốc.

 
Nếu người nghe Bát Nhã Ba la mật như vậy mà chẳng kinh sợ sanh lòng tin hiểu. Nên biết người ấy được Phật ấn khả, là chỗ Phật hành pháp ấn Đại thừa. Nếu thiện nam, thiện nữ học pháp ấn ấy thì vượt khỏi ác thú, chẳng vào Thanh Văn, Bích Chi Phật đạo vậy”.

Lúc bấy giờ, Thiên Đế Thích và Thiên Trời Đao Lợi đem các hoa trời: hoa ưu bát la, hoa câu vật đầu, hoa bát đầu ma, hoa phân đà lợi, hoa mạn đà la v.v… các thứ hương trời: hương chiên đàn, các thứ hương bột, các thứ kim bửu, trỗi kỹ nhạc trờ để cúng dường Bát Nhã Ba la mật cùng chư Như LaiVăn Thù Sư Lợi Bồ Tát.

Cúng dường xong, chư Thiên Đao Lợi nguyện chúng tôi thường được nghe Bát Nhã Ba la mật pháp ấn!

Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn lại phát lời nguyện rằng: Nguyện cho trong Diêm Phù Đề các thiện nam, thiện nữ thường được nghe kinh nầy quyết định Phật pháp, đều khiến họ tin hiểu, thợ trì đọc tụng, giải thuyết cho người, tất cả chư Thiên ủng hộ họ”.

 
Đức Phật phán bảo Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn: “Nầy Kiều Thi Ca! Đúng như vậy. Các thiện nam, thiện nữ ấy sẽ được quyết định Vô thượng Bồ đề”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Các thiện nam, thiện nữ thọ trì kinh nầy thì được lợi ích lớn công đức vô lượng”.

Bây giờ do thần lực của Phật, đại địa chấn động sáu cách. Đức Phật liền mỉm cười phóng quang minh lớn chiếp khắp Đại Thiên thế giới.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Chính đó là tướng đức Như Lai ấn chứng Bát Nhã Ba la mật”.

Đức Phật phán dạy: “Nầy Văn Thù Sư Lợi! Đúng như vậy. Chư Phật thuyết Bát Nhã Ba la mật xong đều hiện tướng lành ấy để ấn chứng Bát Nhã Ba la mật. Khiến người thọ trì không khen không chê, tại sao, vì pháp ấn vô tướng không khen chê được vậy.

Nay đức Phật dùng pháp ấn nầy làm cho các thiên ma không được tiện lợi”.

 Đức Phật nói kinh nầy rồi, chư đại Bồ Tátbốn bộ chúng nghe thuyết Bát Nhã Ba la mật, đều hoan hỉ phụng hành.

PHÁP HỘI VĂN THÙ THUYẾT BÁT NHÃ
THỨ BỐN MƯƠI SÁU
HẾT

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11606)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11922)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11090)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11330)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12048)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12544)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10742)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17961)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11714)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9931)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10158)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12337)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15320)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11220)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14310)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12069)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15305)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11983)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12385)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11148)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12063)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10594)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12541)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13140)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14771)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12631)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16522)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19619)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13091)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12641)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12223)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11815)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10876)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13468)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11920)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11823)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11616)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12748)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14490)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12587)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15643)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13591)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12870)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9845)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17992)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11140)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9051)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12153)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13028)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10278)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12164)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15281)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16576)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12186)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11444)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14244)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19654)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14135)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24563)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10662)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant