Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

16-21 Phẩm Biến Tịnh Thiên Thọ Ký

30 Tháng Tư 201000:00(Xem: 7813)
16-21 Phẩm Biến Tịnh Thiên Thọ Ký
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XVI
PHÁP HỘI
BỒ TÁT KIẾN THIỆT
THỨ MƯỜI SÁU

Hán Dịch: Cao Tế, Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

Phẩm Biến Tịnh Thiên Thọ Ký
Thứ Hai Mươi Mốt


 Bấy giờ có mười hai na do tha chúng trời Biến Tịnh thấy A Tu La nhẫn đến trời Quang Âm cúng dường Phật được thọ ký, họ đều vừa mừng hớn hở tự hiện oai lực bạch đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Có tam muội tên Siêu quá tất cả pháp. Đại Bồ Tát được tam muội ấy rồi, ở nơi các phan duyên và tất cả sự đều sanh lạc thọ mà chẳng sanh khổ thọ. Giả sử ở trong sự địa ngục khổ não, cũng đều sanh ý tưởng vui vẻ, hoặc nơi súc sanh đạo thọ báo súc sanh đạo thọ báo súc sanh cũng ý tưởng vui, hoặc tại ngạ quỉ đạo thọ đói khát cũng sanh tưởng vui, hoặc ở trong A Tu La đạo cũng sanh tưởng vui, hoặc trong loài người bị khổ cũng sanh ý tưởng vui mà chẳng hề sanh ý tưởng khổ. Giả sử bị chặt tay chặt chưn, lắt tai xẻo mũi hay dao gậy chém đập thân người, hoặc tù ngục giam cầm, treo ngược, xẻo da thịt như lột áo, cột trói thái thịt, chày giã ép nghiền như bã mía, chà đạp dập nát như lau cói, hoặc bị thiêu đốt như tim đèn như đuốc sáng, hoặc bị cho sư tử cọp sói xé ăn, hoặc bị rót nước dấm nước cay vào miệng mũi, hoặc bị nung nấu hay thui đốt , hoặc cho voi ngựa chà đạp, hoặc bị móc mắt, hoặc bị mâu sóc đâm giơ lên cao, hoặc bị chặt đầu,tất cả sự ấy đều sanh ý tưởng vui.

 Tại sao vậy?

 Vì đại Bồ tát ấy trong đêm dài tu hạnh Bồ Tát phát nguyện như vầy : Nếu có chúng sanh bố thí vật thực cho tôi,nguyện họ được vui Niết bàn, nếu có chúng sanh ở nơi tôi bố thí cúng dường lễ bái tôn trọng cung kính khen tặng hoặc chê bai xua đuổi quở mắng đánhgiết, đều nguyện cho tất cả đều được vui Niết bàngiác ngộ Vô thượng Bồ đề.

 Đại Bồ Tát ấy thành tựu tâm như vậy, đầy đủ nghiệp như vậy, cũng lại trọn vẹn nguyện như vậy, đối với tất cả chúng sanh đều sanh ý tưởng vui, thường hay tu tập luôn chẳng hở dứt. Do nghiệp báo ấy mà được tam muội Nhứt thiết pháp lạc rất thiện thắng ấy. Lúc đại Bồ Tát được tam muội ấy chẳng bị các ma nhiễu hoại, cũng chẳng bị các ma sự ràng buộc. Phải biết đại Bồ Tát nầy được năm thứ tự tại : một là thọ mạng tự tại, hai là sanh tự tại, ba là nghiệp tự tại, bốn là giác quán tự tại, năm là những món quả báo tự tại. Đại Bồ Tát nầy nếu muốn quá một đời chứng Vô thượng Bồ đề, do nơi sức tam muội ấy nên liền có thể được chứng. Nếu chẳng thích mau chứng Vô thượng Bồ đề thì có thể ở đời vô lượng a tăng kỳ kiếp cứu độ chúng sanh. Tại sao vậy? Phải biết Bồ Tát ấy an trụ đại thừa thường làm Đạo Sư cho chư Bồ Tát nhiếp thọ tất cả chư Bồ Tát khác. Đại Bồ Tát nầy nhàm lìa các loài mà vì độ chúng sanh nên lại sanh vào trong các loài, cứu cánh sở học của tất cả Bồ Tát được Bát Nhã Ba la mật nhiếp thọ, đầy đủ tất cả xảo phương tiện biết các ma nghiệp được pháp cứu cánh. Thừa Phật oai thần, chư đại Bồ Tát ấy nơi tất cả pháp đều biết được hết”.

 Chúng trời Biến Tịnh nói kệ tán thán đức Phật :

 “Chúng tôi tất cả trời Biến Tịnh
 Ở nơi Phật pháp đều biết hết
 Đầu mặt quy kính Thiên Nhơn Sư
 Các căn tịch tĩnh như tịch diệt
 
 Hiểu rõ các nghĩa được cúng dường
 Đấng Mâu Ni đã qua sanh tử
 Tôi nay tán thán đại Đạo Sư
 Hay dắt dẫn người chẳng bị dắt
 Các pháp tánh tướng chẳng cứu cánh
 Cũng lại chẳng có chỗ y trụ
 Như Lai khéo biết sự vọng tưởng
 Như nhà ảo thuật biết sự ảo
 Người trí hiểu rõ tiếng ngữ ngôn
 Dụ như hang sâu dột tiếng vang
 Thế Tôn tri kiến khéo như vậy
 Tất cả thế gian Trời Người thảy
 Không có chúng sanh không thọ mạng
 Cũng lại không nhơn không có ngã
 Đại trí quan sát tất cả tưởng
 Rõ thấu ý tưởng đều về không
 Lưỡng Túc Thế tôn đại từ bi
 Hằng thường hành từ chẳng tạm bỏ
 Tất cả thế gian các Trời Người
 Chẳng lường biết được trí Như Lai
 Đạo Sư diễn nói duyên chúng sanh
 Đó là từ tâm căn lành lớn
 Biết rõ tất cả các chúng sanh
 
 Không có chúng sanhthọ mạng giả
 Nơi đây chúng tôi không cấu trược
 Tâm trí thanh tịnh lìa nghi hoặc
 Thế nên nơi Phật thắng trí huệ
 Đấng đáng thọ cúng dâng cúng dường
 Ở trong mười phương thế giới kia
 Tìm khổ rốt ráo chẳng có được
 Như Lai vô thượng trời trong trời
 Nói duyên chúng sanh phát từ tâm
 Đây là lời dạy của Thế Tôn
 Nay tôi được hiểu cũng như Phật
 Vì thế tôi đối Thế Gian giải
 Nay được cúng dường bực đáng cúng
 Đã không chúng sanh cũng không khổ
 Thế nên không có được cứu độ
 Đã khiển trừ được lòng ưu muộn
 Bèn được mừng vui rất hớn hở
 Phật giáo như vậy bất tư nghị
 Chúng tôi đã được biết như thiệt
 Thế nên nay tôi cúng dường Phật
 Nguyện được trí vô thượng Như Lai
 Phật ở các loài chẳng thấy khổ
 Niết bàn cũng lại bất khả đắc
 
 Tăng thượng vứt bỏ nơi sanh tử
 Dùng đây lợi ích các thế gian
 Không khổ không loài không chúng sanh
 Cũng không Niết bàn để y trụ
 Biết được Phật pháp như vậy rồi
 Thế nên chúng tôi nay cúng dường
 Phật đủ từ bihỉ xả
 Chuyễn vì chúng sanh thường diễn thuyết
 Mà lại chẳng thấy có chúng sanh
 Được trụ nơi bốn tâm vô lượng
 Chẳng thấy có ai là phóng dật
 Cũng lại chẳng thấy bất phóng dật
 Biết được giáo pháp của Phật rồi
 Nay tôi cúng dường đại Đạo Sư
 Vô Thượng Sĩ nơi thân lìa thân
 Quán thân cứu cánh bất khả đắc
 Dầu vậy chẳng phải chẳng nói niệm
 Mà nói có niệm và thất niệm
 Thiện Thệ thường nói tu học niệm
 Đó là quán thân chánh niệm xứ
 
 Nay được cúng dường đấng cứu độ
 Thế Tôn quán thọ bất khả đắc
 Vì thọ không có thể tánh vậy
 Cũng lại quán sát nơi thọ giả
 Cứu cánh không có tánh chơn thiệt
 Và quán người tu niệm xứ ấy
 Cứu cánh cũng lại bất khả đắc
 Chúng tôi biết Phật pháp như vậy
 Nay được cúng dường Thiên Nhơn Sư
 Quán tâmquán tâm số pháp
 Cứu cánh thể tánh bất khả đắc
 Cũng lại chẳng thấy có tu niệm
 Và không ai chánh trụ niệm xứ
 Phật nói niệm cùng tâm hòa hiệp
 Người cầu giải thoát phải tu học
 Chúng tôi biết Phật giáo như vậy
 Nay được cúng dường Chánh Biến Tri
 Như Lai chẳng thấy có các pháp
 Cũng chẳng thấy có người tu pháp
 Đại Thánh chỉ dạy tụ tập niệm
 Niệm ấy cũng lại tánh tự không
 Lại nói niệm cùng pháp hòa hiệp
 Muốn cầu giải thoát phải nên tu
 
 Chúng tôi biết Phật pháp như vậy
 Nay được cúng dường Nhứt thiết trí
 Một niệm xứ còn bất khả đắc
 Huống lại còn có ba và bốn
 Nghĩa là nơi niệm trụ xứ ấy
 Các niệm xứ ấy thảy đều không
 Thế nên thiệt cầu bất khả đắc
 Cứu cánh không người thọ khổ lạc
 Chúng tôi biết thánh giáo như vậy
 Nay được cúng dường Phật Thế Tôn
 Mâu Ni tuyên dạy tứ chánh cần
 Nếu có Tỳ Kheo chuyên tu tập
 Đây thì hay làm đường giải thoát
 Sẽ được ra khỏi biển sanh tử
 Mà không ai thoát không ai trói
 Không Phật không giáo không Bồ đề
 Nhưng lại chẳng hoại giả danh dụng
 Thế nên nay tôi cúng Đại Thánh
 Phật dạy bốn thứ như ý túc
 Đường an ổn giải thoát thắng diệu
 Hàng chúng sanh các căn tịch tĩnh
 Tu hành đạo nầy được Niết bàn
 Như ý và túc cùng người tu
 
 Chơn thiệt quán sát bất khả đắc
 Nhưng chẳng đoạn tuyệt nêu có làm
 Cảnh giới trí huệ chẳng thấy có
 Trong giáo pháp Thế Tôn như vậy
 Nơi đây chúng tôi đều biết cả
 Tâm trí thanh tịnh không cấu uế
 Đều được xa rời các nghi hoặc
 Dùng đây tức là thượng cúng dường
 Cúng đấng kham thọ đấng thù thắng
 Thế nên diệu trí không ngang sánh
 Nay tôi đều được dâng cúng dường
 Đấng Thế Gian Giải nói ngủ căn
 Xuất thế được đến giải thoát
 Cẩn thận chớ lười thường siêng tu
 Đó là xu hướng Niết bàn lộ
 Căn và người tu thảy đều không
 Cũng không giải thoát và người thoát
 Nơi đây chúng tôi đều không nghi
 Thế nên nay được cúng dường Phật
 Đạo Sư chỉ dạy năm thứ lực
 Đường chánh đến được thành Niết bàn
 Đây dứt được hết phiền não phược
 Khiến người bị trói được giải thoát
 
 Thể các lực ấy tánh tự không
 Phiền não và Phật đều cũng không
 Chúng tôi nơi đây không nghi lự
 Thế nên nay được cúng Như Lai
 Đại Tiên diễn nói bảy giác chi
 Bồ đề phần pháp đạo tối thắng
 Hay mở sự trói các chúng sanh
 Hướng đến Niết bàn đường lớn thẳng
 Không có trói buộcgiải thoát
 Cũng không ai bị trói được mở
 Nơi đây chúng tôi không nghi hoặc
 Thế nên nay được cúng dường Phật
 Thế Tôn tuyên dạy bát chánh đạo
 Hiển thị tất cả các quần sanh
 Đây là gốc khổ các phiền não
 Tu học thánh đạo dứt trừ được
 Cả hai pháp ấy lìa đối trị
 Đó là thánh đạophiền não
 Chúng tôi nơi đây đều không nghi
 Thế nên được cúng đấng đáng cúng
 Tu xa ma tha và xá na
 Đạo ấy hay hết các mé khổ
 Chỉ bày thọ khổ tập khí dơ
 
 Thể các lực ấy tánh tự không
 Phiền não và Phật đều cũng không
 Chúng tôi nơi đây không nghi lự
 Thế nên nay được cúng Như Lai
 Đại Tiên diễn nói bảy giác chi
 Bồ đề phần pháp đạo tối thắng
 Hay mở sự trói các chúng sanh
 Hướng đến Niết bàn đường lớn thẳng
 Không có trói buộcgiải thoát
 Cũng không ai bị trói được mở
 Nơi đây chúng tôi không nghi hoặc
 Thế nên nay được cúng dường Phật
 Thế Tôn tuyên dạy bát chánh đạo
 Hiển thị tất cả các quần sanh
 Đây là gốc khổ các phiền não
 Tu học thánh đạo dứt trừ được
 Cả hai pháp ấy lìa đối trị
 Đó là thánh đạophiền não
 Chúng tôi nơi đây đều không nghi
 Thế nên được cúng đấng đáng cúng
 Tu xa ma tha và xá na
 Đạo ấy hay hết các mé khổ
 Chỉ bày thọ khổ tập khí dơ
 
 Kiếp xa Thế Tôn đã trừ sạch
 Quả xa ma tha và xá na
 Tất cả thứ ấy thảy đều không
 Chúng trời nơi đây lìa nghi hoặc
 Vì thế chúng tôi nay cúng dường
 Phật nói bất tịnh trị tham dục
 Từ tâm đối trị các sân khuể
 Tỳ bà xá na đối trị si
 Như Lai hiển thị các chúng sanh
 Đây đều vô tác không tạm dừng
 Thế nên không cấu cũng không tịnh
 Chúng tôi nơi ấy đều không nghi
 Thường thích cúng dường đại Đạo Sư
 Mười nghiệp bất thiện của Phật nói
 Thứ ấy gọi là nghiệp đạo ác
 Sát sanh thâu đạotà dâm
 Vọng ngữ lưỡng thiệt cùng ác khẩu
 Ỷ ngữ tham dụcsân khuể
 Tối hậu thứ mười tên tà kiến
 Phật nói thứ ấy là bất thiện
 Là nghiệp đạo ác của chúng sanh
 Đã không chúng sanh cũng không hại
 Cả chín nghiệp kia cũng đều không
 
 Không có đối trị các thiện ác
 Vì tự tánh nó vốn không tịch
 Nhưng chẳng phải không lời Phật dạy
 Bởi vì chẳng hoại pháp thể tánh
 Tôi nơi Phật huệ cũng chẳng nghi
 Thế nên nay cúng trí vô thượng
 Nếu người tu pháp của Như Lai
 Người ấy tức là chơn Phật tử
 Người ấy xứ xứ đều thọ vui
 Hằng thường xa lìa các khổ não
 Thiện Thệ trí huệ thắng như vậy
 An ổn dẫn đạo các quần sanh
 Chúng tôi nơi đây lìa lòng nghi
 Nay đều cúng dường đấng đáng cúng ».

 Chúng trời Biến Tịnh nói kệ tán thán đức Phật rồi đều yên lặng đứng một phía.

 Đức Thế Tôn thấy chúng trời ấy đứng yên lặng, và biết lòng thâm tín của họ nên hiện tướng mỉm cười.

 Huệ Mạng Mã Thắng nói kệ bạch hỏi đức Phật :

 « Nay Phật Thế Tôn trí thù thắng
 Vì lợi ích đời hiện mỉm cười
 Thập Lực Thế Hùng siêu tất cả
 Mà hay hóa phục các đại chúng
 Giỏi hiểu các pháp đại Đạo Sư
 Phật hiện tướng cười chẳng không nhơn
 Đấng Thế Gian Giải lòng không thiếu
 Ngưỡng mong giải nói nghĩa mĩm cười
 Các đại chúng đây đều một lòng
 Không có loạn tưởngchánh niệm
 Lòng vui chiêm ngưỡng núi công đức
 Chỉ muốn được nghe cung kính đứng
 Nơi Đại Luận Sư tự tại Phật
 Nếu được nghe nói đều vui mừng
 Giỏi hiểu các pháp trí quyết định
 Sẽ được làm Phật độ quần sanh
 Nếu ai nơi Phật sanh tịnh tín
 Chắc thành đại trí nhứt thế gian
 Lường biết câu cam lộ vi diệu
 Người nầy thấy được khắp mười phương
 Ai ở trong kiếp đời vị lai
 Sẽ được làm Phật thường thế gian
 Đấng đại Đạo Sư diệu ngôn từ
 Ngưỡng mong nói rõ cho chúng vui
 Nếu ở nơi đấng Đại Thánh Hùng
 
 Mà sanh kính tin lòng tôn trọng
 Cũng ở chánh pháp sanh tín huệ
 Tất cả các ma chẳng động được
 Nếu hay sanh tín được quyết định
 Tức là Phật tử từ tâm sanh
 Ngưỡng mong Thế Tôn diễn nói pháp
 Do đó đại chúng được trừ nghi
 Nếu có ai đối với chúng sanh
 Tâm từ che chở khắp thế gian
 Trí huệ kiên cố sẽ thành Phật
 Bèn được an trụ Nhứt thiết trí
 Đấng vô thượng trăm phước trang nghiêm
 Ngưỡng mong giải bày trừ lưới nghi
 Chỉ muốn thọ trì pháp Thế Tôn
 Như Lai vì họ hiện tướng cười
 Mong được nghe Phật lời thiện xảo
 Âm thanh tám đức rất vi diệu
 Trước tự được đến nơi thiện đạo
 Sau hay dẫn dắt các quần sanh
 Phật pháp vi diệu là như vậy
 Phật tử an trụ ở trong ấy
 Giống Phật Thế Tôn chẳng đoạn tuyệt
 Chắc được ở lâu tại thế gian”.
 
 Đức Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ Kheo :

 “Mã Thắng nay ông hỏi cớ cười
 Phật vì lợi ích các thế gian
 Ông được phước đức vừa lòng mình
 Phước ấy vô lượng chẳng hết được
 Người trí mới hay hỏi đúng lúc
 Do đó lợi lớn các chúng sanh
 Ông cùng tất cả hàng đại chúng
 Mừng vui một lòng nghe Phật nói
 Chúng trời Biến Tịnh hiện diện đây
 Ở trong pháp Phật đều không nghi
 Tất cả mừng vui lòng tịnh tín
 Dùng kệ khen ngợi Phật công đức
 Trời ấy đã ở đời quá khứ
 Cúng dường ngàn ức do tha Phật
 Cũng hỏi Phật ấy những nghĩa nầy
 Trong tất cả pháp đều không nghi
 Do các nhơn duyên thuở xưa ấy
 Nay nói được kệ tán thán Phật
 Cũng lại tịnh tâm sẽ tán thán
 Hiền kiếp tất cả chư Như Lai
 
 Trong kiếp Ưu Ba La họ sẽ
 Thành Phật đại lực na la diên
 Giáo hóa chúng sanh bất khả tư
 Dẫn dắt vào nơi thành Niết bàn
 Lúc chư Đại Thánh ấy thành Phật
 Được danh hiệu Phật rất vi diệu
 Nay ta vì ông nói hiệu ấy
 Đồng trong kiếp ấy đều làm Phật
 Hiệu là Pháp Tràng Phật Như Lai
 Thảy đều cứu độ bất tư nghị
 Na do tha chúng nhập Niết nàn
 Các Như Lai ấy diệt độ rồi
 Đốt thân lưu bố những Xá lợi
 Đem Xá lợi ấy đều xây tháp
 Đầy trong quốc độ như rãi hoa
 Bấy giờ tất cả Phật Xá lợi
 Mỗi mỗi thảy đều lưu bố rộng
 Sau mỗi mỗi Phật ấy nhập diệt
 Thảy đều lợi ích các thế gian
 Bất tư nghị do tha chúng sanh
 Cúng dường Xá lợi Phật ấy rồi
 Sẽ được cam lộ diệu Niết bàn
 Tam thế chư Phật đều tán thán
 
 Nếu ai xưng niệm danh Phật ấy
 Thì được thiện căn thắng vi diệu
 Sẽ được thành tựu đạo hữu học
 Gặp Phật chuyễn được quả thù thắng
 Dường như vô lượng nan tư chúng
 Đều ở chỗ ta trồng căn lành
 Mừng ưa tin thích tâm thanh tịnh
 Sẽ được gặp gỡ Phật Di Lặc
 Chúng Thanh Văn của chư Phật ấy
 Từ Phật ấy đến chỗ chư Phật
 Sẽ được gặp Phật nhập chúng hội
 Đều do cúng dường Xá lợi ấy
 Được nghe lời Phật như vậy rồi
 Tất cả đại chúng sanh hi hữu
 Công đức thắng diệu có oai thần
 Chúng trời Biến Tịnh thanh tín sĩ
 Và hàng đại chúng khắp vui vẻ
 Thảy đều lưu chú hướng Bồ đề
 Được biết Như Lai thế lực lớn
 Thảy đều dảnh lễ chưn Thế Tôn”.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11648)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11973)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11124)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11361)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12078)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12574)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10777)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17999)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11738)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9962)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10188)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12362)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15357)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11259)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14339)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12120)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15384)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12013)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12426)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11197)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12098)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10629)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12568)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13181)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14853)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12705)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16589)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19679)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13118)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12676)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12276)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11869)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10910)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13548)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11967)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11853)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11647)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12779)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14532)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12627)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15672)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13638)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12915)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9885)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18028)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11183)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9092)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12192)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13070)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10324)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12207)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15327)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16618)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12231)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11497)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14282)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19717)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14161)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24622)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10705)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant