Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

16-10 Phẩm Dạ Xoa Thọ Ký

30 Tháng Tư 201000:00(Xem: 8561)
16-10 Phẩm Dạ Xoa Thọ Ký
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XVI
PHÁP HỘI
BỒ TÁT KIẾN THIỆT
THỨ MƯỜI SÁU

Hán Dịch: Cao Tế, Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

 Phẩm Dạ Xoa Thọ Ký
Thứ Mười


 Bấy giờ lại có tám ức Dạ Xoa thấy A Tu La , Ca LâuLa, Long Nữ, Long Vương, Cưu bàn Trà, Càn Thát Bà cúng dường Phật được thọ ký , họ vui mừng hớn hở đều sanh lòng hi hữu, chưa từng có biết Phật Thế Tôn trí huệ vô tận tối tôn tối thắng trí huệ vô ngại bất khả tư nghì. Họ còn lại được nghe pháp môn thứ đệ. Đối với Phật, họ tưởng là Đạo Sư, là vô tận huệ. Đối với chánh pháp của Phật sanh lòng yêu thích. Vì cúng dường nên phát khởi tinh tấn nói kệ tán thán rằng :

 « Chúng tôi tán thán đấng cứu thế
 Vì Phật đầy đủ trí lực vậy
 Vô tận vô lượng như biển cả
 Thế Tôn thân tốt không ai bằng
 Tu Di còn biết được khinh trọng
 Hư không còn biết được rộng hẹp
 Sức trí huệ của đức Như Lai
 Tất cả chẳng ai đo lường được
 Biết các chúng sanh lòng kính tin
 Những người đáng độ đều độ xong
 Nơi người được độ biết xu hướng
 Nên Phật là không ai sánh bằng
 Tùy chúng tu tạo nghiệp thiện ád
 Tất cả chỗ sanh thọ thân hình
 Biết rõ căn tính đáng thọ pháp
 Nên Phật là không ai sánh bằng
 Tham dục ác hành sân khuể hành
 Si hành phiền não Phật đều biết
 Kiêu mạn tật đố cũng biết rõ
 Nên Phật là không ai sánh bằng
 Chúng sanh nơi đây nhiều lầm lỗi
 Như Lai biết rõ nghiệp đạo họ
 Thế Tôn biết họ rất lanh lẹ
 Nên Phật là không ai sánh bằng
 Thiện Thệ thấy rõ các htế gian
 Tùy phương diện họ có lỗi lầm
 Và cùng ngữ ngôn họ sai lỗi
 Thế Tôn thấy rõ hết tất cả
 Tại trong lục đạo ở bao lâu
 Tùy họ thọ khổ nhiều hay ít
 Và họ thọ lấy các thứ thân
 Tất cả Thế Tôn đều thấy biết
 Tùy sức phiền não họ phát khởi
 Phương tiện tạo tác và gây nghiệp
 Theo nghiệp thọ lấy các thứ khổ
 Tất cả Đạo Sư đều biết rõ
 Tùy họ chỗ cầu đạo giải thoát
 Ở trong Phật pháp đã xuất gia
 Tinh tấn tu học thánh đạo rồi
 Dứt hết phiền não Phật đều biết
 Ở trong Phật phápphàm phu
 Dầu được xuất gia chẳng biết nghĩa
 Chê bai pháp diệu của người trí
 Thế Tôn cũng lại biết rõ họ
 Những kẻ chê bai chánh pháp ấy
 Nghiệp hành ấy mắc những khổ não
 Tùy tại địa ngục ở lâu mau
 Như Lai cũng đều biết rõ cả
 Nơi Phật đã được kính tin sâu
 Xuất gia thọ trì tạng chánh pháp
 Quán sát các pháp thảy đều không
 Dứt trừ tất cả đường sanh tử
 Chẳng muốn tất cả thân sanh tử
 Quan sát thân nầy dường như ảo
 Biết các âm thanh đều như hưởng
 Ở vững nơi đạo Phật cũng biết
 Tán thán Đạo Sư không sánh bằng
 Nay tôi chỗ được khối phước đức
 Dùng phước đức này nguyện thành Phật
 Cũng nguyện chúng sanh thành Chánh giác ” .

 Đức Thế Tôn biết chúng Dạ Xoa thâm tâm kinh tín nên hiện tượng mỉm cười.

 Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi rằng :

 “Đức Thế Tôn hiên tướng mỉm cười
 Ngưỡng mong cho biết bhơn duyên cười
 Tất cả chư Phật chẳng vô cớ
 Mà hiện ra tưởng mỉm cười ấy
 Nay đại chúng nầy đều hoài nghi
 Vì thấy Đạo Sư mỉm cười vậy
 Ngưỡng mong Thế Tôn trừ nghi cho
 Khiến tất cả chúng được mừng rỡ
 Nay người được kính tin nơi Phật
 Và người biết chánh pháp vi diệu
 người tâm kiên cố bất động ấy
 Nguyện Phật tuyên nói cho họ nghe
 Đại chúng tại đây đều hoài nghi
 Tất cả chiêm ngưỡng mặt Như Lai
 Hôm nay sẽ có những sự gì
 Duy nguyện Thế Tôn dứt nghi cho
 Hôm nay ai hiện đại thần lực
 Hôm nay ai phát đại tinh tấn
 Hôm nay Phật cùng ai thân hữu
 Nơi đại chúng nầy xin hiển hiện
 Lành thay Mâu Ni thương thế gian
 Ngưỡng mong dứt trừ các nghi hoặc
 Trời Người đại chúng đều được nghe
 Hôm nay tất cả rất mừng vui ”.

 Đức Thế Tôn nói đáp Mã Thắng Tỳ Kheo rằng :

 “ Lành thay lời hỏi của Mã Thắng
 Nay sẽ lợi ích lớn thế gian
 Do ông hỏi được nhơn duyên cười
 Nên khen ông khéo hiểu ý Phật
 Nay Phật sẽ đáp hết nghĩa ấy
 Ông nên nhứt tâm chuyên lắng nghe
 Biết tâm ý các Dạ Xoa rồi
 Phật vì thế gian hiện mỉm cười
 Các chúng Dạ Xoa lòng kính tin
 Vì họ biết Bồ đề tịch diệt
 Khen Phật công đức chơn thiệt rồi
 Phát tâm xu hướng đại Bồ đề
 Vì họ biết các pháp không tịch
 Trừ khiến tất cả tướng hư vọng
 Nguyện bỏ tất cả loài sanh tử
 Phát tâm xu hướng đại Bồ đề
 Do sức thiền định biết các ấm
 Chỉ là thế đế chẳng chấp trước
 Chẳng trước sanh tử như hoa sen
 Phát tâm sanh tử đại Bồ đề
 Những sự chướng ngại trong sanh tử
 Họ thấy là không chẳng bị buộc
 Biết Phật Bồ đề vô thượng rồi
 Họ có thể tu Bồ đề hạnh
 Những sanh lão tử thảy đều không
 Đây là đâo Bồ đề vô thượng
 Biết pháp tự tánh không tịch rồi
 Nay được đại Bồ đề an ổn
 Biết ấm tự tánh không tịch rồi
 Bồ đề tịch tĩnh tánh cũng lìa
 Hạnh Bồ đề được tu cũng không
 Trí biết như vậy phàm chẳng rõ
 Hay quán trí huệ tánh tự không
 Cảnh giới được quán đều tịch diệt
 Người biết pháp biết thảy đều không
 Người nầy hay tu Bồ đề đạo
 Phải biết không cũng tánh tự không
 Tướng và nguyện cũng không thể tánh
 Nếu người có thể biết như vậy
 Người nầy hay tu hạnh chơn thiệt
 Trời Người đại chúng nghe đây rồi
 Sanh lòng mừng rỡ được lợi ích
 Nơi Phật tất cả kính tin rồi
 Tâm trụ câu Bồ đề tịch tĩnh
 Nay cúng dường thù thắng nầy rồi
 Tâm chúng Dạ Xoa đều thanh tịnh
 Những bực trí nầy bỏ quỉ đạo
 Hưởng thọ vui trong thiện đạo
 Nơi nhiều ức Phật thuở vị lai
 Họ dùng thần thông trong một niệm
 Nơi nhiều Phật độ sắm cúng dường
 Ở chỗ chư Phật được pháp nhẫn
 Nơi các thế giới chẳng khởi tướng
 Người trí hay dùng thần lực đến
 Quán thế gian nầy như ảo hóa
 Người trí du hành không thủ trước
 Dạ Xoa dũng mãnh cúng dường Phật
 Sẽ được vô thượng đại Bồ đề
 Cũng được vô thượng tịnh Phật độ
 Trong ấy sẽ độ vô lượng chúng
 Chúng ấy sẽ thành Thế Gian Giải
 Tất cả đồng hiệu Vô Biên Trí
 Danh nghe mười phương thọ ngàn kiếp
 Trí huệ thọ mạng tịch diệt đồng
 Chư Phật ấy có chúng Thanh Văn
 Dường như tinh tú giữa đêm vắng
 Chúng ấy dễ được đại Bồ đề
 Tất cả không có sự nặn khổ
 Trời Người đại chúng nghe đây rồi
 Vì đạo Bồ đề lòng mừng rỡ
 Tâm họ kiên cố phát tinh cần
 Dùng sức tinh tấn gìn công hạnh ”.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11616)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11924)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11094)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11330)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12054)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12546)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10748)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17965)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11716)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9934)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10160)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12338)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15325)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11225)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14315)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12080)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15321)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11986)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12387)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11148)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12071)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10595)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12544)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13147)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14776)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12644)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16528)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19626)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13096)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12645)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12237)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11821)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10882)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13474)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11930)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11831)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11619)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12749)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14495)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12587)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15650)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13597)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12877)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9851)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17995)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11147)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9056)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12157)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13031)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10285)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12174)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15285)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16578)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12190)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11453)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14256)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19662)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14136)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24569)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10669)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant