Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

16-12 Phẩm Hư Không Hành Thiên Thọ

30 Tháng Tư 201000:00(Xem: 8062)
16-12 Phẩm Hư Không Hành Thiên Thọ Ký
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XVI
PHÁP HỘI
BỒ TÁT KIẾN THIỆT
THỨ MƯỜI SÁU

Hán Dịch: Cao Tế, Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

Phẩm Hư Không Hành Thiên Thọ
Thứ Mười Hai


 Bấy giờ lại có tám vạn Hư Không Hành Thiên thấy A Tu La, Ca Lâu La, Long Nữ, Long Vương;, Cưu Bàn Trà, Càn Thát Bà, Dạ XoaKhẩn Na La cúng dường đức Phật được thọ ký, họ đều rất vui mừng hớn hở vô lượng ở trong Phật pháp thân tâm yêu thích. Vì cúng dường Phật họ phát khởi tâm dũng mãnh. Vòng khắp ngoài thành Ca Tỳ La tám vạn sáu ngàn do tuần, chư Hư Không Hành Thiên ấy mưa lớn mạn đà la khắp mặt đất dày đến gối người. Họ cúng dường Phật nhiễu Phật ba vòng, nói kệ tán thán đức Phật rằng :”

 “Các căn tịch tĩnh mặt mỉm cười
 Cứu hộ tất cả các chúng sanh
 Thiện Thệ đầy đủ đại từ bi
 Nên làm Thế Tôn Thiên Nhơn Sư
 Như Lai đại chúng đều an trụ
 Ở trong Phật phápNiết bàn
 Đạo Sư hạnh trí Lưỡng Túc Tôn
 Chúng tôi đầu mặt nay đảnh lễ
 Như đêm rằm vầng trăng tròn sáng
 Người đời đều lạy trăng giữa sao
 Như vậy tất cả các thiên chúng
 Thấy Phật mặt cười đều đảnh lễ
 Chứa nhóm khối lớn vô lượng phước
 Cũng lãi thành tựu thân trí huệ
 Đầy đủ vô lượng oai đức lớn*
 Nên tôi đảnh lễ đấng cứu đời
 Núi công đức đầy đủ thập lực
 Tam đế vô úy lìa tam cấu
 Thành tựu mười tám phAp bất cộng
 Thấy rõ không nghi đấng Đạo Sư
 Đầy đủ ba mươi hai tướng tốt
 Tám mươi tùy hảo sự trang nghiêm
 Tâm Phật thắng thượng như đế Tràng
 Nên tôi đảnh lễ đấng vô thượng
 Đã hay cứu cánh sức trì giới
 Thiên lực quyết định chẳng khuynh động
 Nắm cầm gươm trí huệ tối thượng
 Tối thắng dũng kiện hàng thiên ma
 Nơi sức trí huệ đến bờ kia
 Điều ngự Thanh Văn lòng không tiếc
 Tâm Phật tịch tĩnh khắp mười phương
 Độ thoát tất cả chúng Nhơn Thiên
 Thế Tôn lAé đấng Thiên Nhơn Sư
 Được pháp tịch diệt tối vô thượng
 Thưa vâng bạch Thế Tôn tôi nghuyện
 Cũng sẽ được pháp thắng diệu ấy
 Nguyện tôi cũng sẽ trong Nhơn Thiên
 Được các thế gian tìm mến thích
 Như đức Thế Tôn bằng không khác
 Biết rõ tâm thích muốn chúng sanh
 Nguyện tôi làm lợi cho thế gian
 Dùng tâm xót thương tâm đại bi
 Nguyện tôi đều độ thoát được những
 Chúng sanh đọa biển khổ sanh tử
 Nguyện tôi ở trong hang Thiên Nhơn
 Được làm Đại Đạo Sư vô thượng
 Tôi sẽ giải thoát cõi sanh tử
 Những chúng sanh bị trăm thứ khổ ”.

 Đức Thế Tôn biết chúng Hư Không Hành Thiên có tâm tín nguyện sâu rộng nên liền mỉm cười.

 Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi rằng :

 “ Phật Mâu Ni chẳng phải không duyên
 Chiếu sáng ba cõi hiện mỉm cười
 Ngưỡng mong Thập Lực nói rõ cho
 Vì chúng sanh nào mà mỉm cười
 Thấy mặt tối Thắng của Như Lai
 Hiện tướng mỉm cười làm chúng mừng
 Tất cả đại chúng đều hoài nghi
 Xin Phật nói rõ nhơn duyên cười
 Xin Đại Đạo Sư mau nói rõ
 Nhơn duyên mỉm cười sự lợi ích
 Xin dứt trừ lưới nghi cho chúng
 Xin vua trong Sa Môn tuyên nói
 Ai làm cho Phật hiện mỉm cười
 Ai ở nơi Phật bày cúng dường
 Khiến ai đạt được đáy sanh tử
 Mong đức Thế Tôn trừ nghi cho
 Ai ở ngày nay động cung ma
 Khiến ma cuồng loạn lòng chẳng an
 Ai ở ngày khiến Thiên chúng
 Thảy đều vui mừng rất hớn hở
 Ngưỡng mong vì tôi mà tuyên nói
 Dứt trừ tất cả nghi cho đời
 Đại chúng nếu được nghe Phật nói
 Tất cả sẽ đều rất vui mừng ”.

 Đức Thế Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng Mã Thắng :

 “ Hôm nay Mã Thắng bạch hỏi Phật
 Việc thọ ký Hư Không Hành Thiên
 Ông hỏi nơi Phật lợi ích lớn
 Cho vô lượng Trời Người thế gian
 Nếu không hỏi nơi đức Thập Lực
 Chẳng được nghe nói lời thọ ký
 Nay ông bạch hỏi nơi Như Lai
 Làm lợi ích lớn cho thế gian
 Không Hành Thiên đây nơi đức Phật
 Dùng tâm mừng rỡ mà cúng dường
 Qua khỏi số kiếp a tăng kỳ
 Dứt ttrừ phiền não được làm Phật
 Từ nơi thân nầy mạng chung rồi
 Liền được sanh trời chỗ thù thắng
 Chỗ vô lượng ức chư Như Lai
 Đều dung hương hoa để cúng dường
 Ở chỗ chư Phật phát đạo tâm
 Cũng lại tăng tiến tâm Bồ đề
 Bởi nói vô lương nhơn thắng diệu
 Khen ngợi trí tự nhiên của Phật
 Chúng ấy sẽ ở đời vị lai
 Chỗ vô lượng vô biên chư Phật
 Dùng hương hoa tốt để cúng dường
 Cũng nói kệ hay để khen ngợi
 Chư Bồ Tát thân na la diên
 Cúng dường tán thán chư Phật rồi
 Ở đời Như Lai kiếp Hân Hỷ
 Được thành trí tối thắng vô thượng
 Phật ấy hiệu là Hoa Tràng Tôn
 Tiếng danh nghe khắp đều kính trọng
 Tám vạn chúng thiên thần Không Hành
 Đều đồng một kiếp được thành Phật
 Trong cõi Phật ấy không địa ngục
 Cũng không ngạ quỉsúc sanh
 Cõi ấy cũng không loài Tu La
 Không có tất cả tám điều nạn
 Lúc tám vạn Hành Thiên thành Phật
 Cõi ấy tất cả nhơn dân
 Tất cả chúng sanh thọ vô lượng
 Quả báo như quả trời Đao Lợi
 Nước ấy chẳng nghe tên ác đạo
 Huống là có người tạo nghiệp ác
 Thuở ấy chúng sanh đều như pháp
 Tất cả đều là chúng điều phục
 Phật ấy độ người vô lượng ức
 Số ấy đông hơn cát sông Hằng
 Tuyên nói pháp vô y vô trước
 Thập Lực độ thoát các chúng sanh
 Phật ấy nhập đại Niết bàn rồi
 Xá lợi lưu bố xây bửu tháp
 Mỗi Mỗi Xá lợi của Phật ấy
 Trong ấy đều hiện thân tướng Phật
 Danh tiếng không hư các thân phần
 Vì chúng sanh ấy hiện thân biến
 Vô lượng ức số các chúng sanh
 Đều phát tâm vô thượng Bồ đề
 Đạo Sư trí phương tiện như vậy
 Thọ ký cho chúng Không Hành Thiên
 Tất cả đại chúng nghe thọ ký
 Thảy đều vui mừng rất hớn hở ’’
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11632)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11948)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11102)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11342)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12062)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12554)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10763)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17973)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11723)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9945)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10168)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12348)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15337)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11239)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14326)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12094)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15360)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11997)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12403)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11171)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12085)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10602)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12554)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13158)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14836)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12675)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16569)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19661)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13106)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12662)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12252)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11843)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10898)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13519)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11945)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11840)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11631)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12763)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14514)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12612)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15663)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13623)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12893)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9861)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18014)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11163)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9076)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12171)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13042)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10298)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12185)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15304)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16607)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12213)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11472)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14267)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19698)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14149)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24605)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10680)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant