Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa

21 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 31179)
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa


Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa
(Trọn bộ 24 tập)

Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm
Khảo dịch: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
Sàigòn - 1998

--- o0o ---


batnha


LỜI TRẦN TÌNH
về Cảo Bản Dịch Phẩm Đại Bát Nhã
của Đại Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm

 

Bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển, chiếm tới ba tập khổ lớn trong Đại Tạng Kinh Đại Chính Tân Tu, mỗi tập trên dưới 1.000 trang, mỗi trang độ 1.500 chữ, tổng cộng khoảng 4.500.000 chữ (Hán); thường được gọi là Đại Bát Nhã, mang số hiệu 220.

Khoảng giữa năm 1973, theo quyết định của Hội đồng Giáo phẩm Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Hội đồng Phiên dịch Tam Tạng gồm 18 vị được thành lập với Hòa Thượng Trí Tịnh làm Trưởng ban, Hòa Thượng Minh Châu làm Phó trưởng ban và Hòa Thượng Quảng Độ làm Tổng thư ký. Trong kỳ họp tại Viện Đại Học Vạn Hạnh vào những ngày 20, 21, 22 tháng 10 năm 1973 nhằm thảo luận phương thức, nội dung và chương trình làm việc, Hòa Thượng Thích Trí Nghiệm được Hội đồng phân công phiên dịch bộ Đại Bát Nhã 600 quyển này. Thực ra, Ngài đã tự khởi dịch bộ kinh này từ năm 1972 và khi được phân công, Ngài đã dịch được gần 100 quyển. Đây là bộ kinh lớn nhất trong Đại Tạng, đã được Ngài dịch suốt 8 năm (1972-1980) mới xong và đã dịch theo bản biệt hành, gồm 24 tập (mỗi tập 25 quyển), và cũng đóng thành 24 tập như nguyên bản chữ Hán.

Cảo Bản của dịch phẩm Kinh Đại Bát Nhã đã được đánh máy làm hai bản. Khi đánh máy xong thì cũng nhằm lúc Hội đồng Chỉ đạo Phiên dịchẤn hành Đại Tạng Kinh Việt-nam của Giáo hội Phật giáo Việt-nam được thành lập (1990), do Hòa Thượng Thích Minh Châu làm chủ tịch. Để kịp thời phổ biến sâu rộng, đồng thời góp phần mình vào tòa nhà văn hóa Phật giáo Việt-nam, Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm đã gửi toàn bộ cả hai bản đánh máy của Cảo Bản ấy vào cúng cho Hội đồng Chỉ đạo Phiên dịchẤn hành Đại Tạng Kinh Việt-nam của Giáo hội, để cho in và lưu hành.

Đến năm 1993, Hòa Thượng dịch giả đã ngoài 80 tuổi, mà dịch phẩm Kinh Đại Bát Nhã vẫn chưa được Hội đồng Phiên dịch ấn hành! Thời điểm này, Thượng Tọa Thích Tịnh Hạnh (ở Đài-loan) đang chủ xướng công việc phiên dịch Hán Tạng thành Việt Tạng. Do đó, Thượng Tọa đã xin phép Hòa Thượng dịch giả, tình nguyện đứng ra in và phát hành dịch phẩm này. Nhận thấy văn dịch của Hòa Thượng cổ kính, Thượng Tọa Tịnh Hạnh xin Ngài nhờ người nhuận văn lại. Hòa Thượng đồng ý. Sau khi liên lạc và được sự đồng ý của Hòa Thượng Thích Minh Châu, Hòa Thượng dịch giả nhận lại một trong hai bản đánh máy của Cảo Bản và giao lại cho tôi (vì bộ Đại Bát Nhã nằm trong số 24 tập của Đại Tạng Kinh Đại Chánh Tân Tu mà tôi nhận phụ trách dịch cho Thượng Tọa Tịnh Hạnh). Thoạt đầu, Hòa Thượng cho tôi biết Ngài chọn cư sĩ Tịnh Minh (Đặng Ngọc Chức) và cư sĩ Giác Tuệ (Trần Nguyên Sanh) nhuận văn bộ dịch phẩm của Ngài. Nhưng sau đó, vì cư sĩ Tịnh Minh bận dạy học và ở xa, không thể đảm trách được, tôi đề nghị cư sĩ Bảo Quang (Lê Từ Vũ) thay thế và được Hòa Thượng đồng ý. Công việc nhuận văn của hai vị cư sĩ được thực hiện tại tổ đình Hội-phước (chùa Cát, Nha-trang). Những điểm cần bàn thảo trong lúc nhuận văn được trực tiếp đem lên Hoàng Trúc Am (trú xứ của Hòa Thượng) để thỉnh tôn ý của Ngài. (Ngài cẩn thận dạy như vậy ngay từ đầu).

Nhuận văn xong quyển nào (từ nguyên bản bộ biệt hành), cư sĩ Giác Tuệ đọc lại để tôi dò với nguyên bản trong Tạng Đại Chánh. Nhân đây, tôi thấy rằng, giữa hai bản chỉ có một ít chỗ khác từ mà không khác nghĩa, hoặc có chỗ thêm từ mà nghĩa giống nhau.

Sau khi phần việc nhuận văn và dò lại với nguyên bản hoàn tất, Cảo Bản được đánh vào vi tính và giao cho Thượng Tọa Tịnh Hạnh. Nhân lúc này, Hòa Thượng Thích Quảng Độ cũng vừa được phóng thích nên Thượng Tọa Tịnh Hạnh nhờ Ngài giảo chính lại. Sau khi xem xong, Hòa Thượng Quảng Độ rất hoan hỉtán thán. Ngài nói nhân lúc tôi đến thăm Bộ Đại Bát Nhã do Trưởng Lão Trí Nghiêm dịch và quý vị nhuận văn lại như vậy là tốt. Tôi lật xem chỉ thấy Hòa Thượng Quảng Độ sửa một vài chữ, như Đại Lão được sửa lại làTôn giả?, Ngài nói với tôi rằng: Tôn giả linh thiêngđạo vị hơn Đại Lão.

Trước khi Thượng Tọa Tịnh Hạnh nhờ Hòa Thượng Thích Quảng Độ giảo chính, trong một buổi họp tại chùa Long-sơn (Nha-trang), do Thượng Tọa Tịnh Hạnh chủ trì, tôi chứng minh, với sự hiện diện của hơn 20 dịch giả (kể cả hai cư sĩ Bảo Quang và Giác Tuệ), cư sĩ Nguyên Huệ phát biểu với tư cách ban biên tập: Trong những dịch phẩm đã dịch xong thì bộ Đại Bát Nhã tương đối hoàn chỉnh nhất. Thượng Tọa Tịnh Hạnh cho biết sẽ giao cho cư sĩ Thanh Tuệ bên Pháp chuẩn bị in dịch phẩm Kinh Đại Bát Nhã này trước tiên. Đó là năm 1999. Nhưng mãi cho đến nay, tháng 2 năm 2003, dịch phẩm Kinh Đại Bát Nhã của Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm vẫn chưa thấy ra mắt!

Đại Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm đã viên tịch ngày 13 tháng 1 năm 2003.

Nay, nhân tang lễ cố Đại Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm, quí Tôn Đức Thiền Sư và Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam tại Hoa-kỳ, cùng đồng bào Phật tử hải ngoại, phát tâm ấn hành bộ Kinh Đại Bát Nhã (đã được nhuận văn) này, để làm pháp cúng dường giác linh Đại Trưởng Lão Hòa Thượng.

Chúng tôi cũng có điều cần ghi chú ở đây rằng: Năm 1997, sau khi Đại Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm làm Đường Đầu Hòa Thượng thí giới cho gần 5.000 giời tử, tại đại giới đàn Thiện Hòa, ở Đại-tùng-lâm, thuộc tỉnh Bà-rịa Vũng-tàu, Đại Đức Thích Thông Huyền, đại diện cho nhóm Tăng NiCư sĩ thuộc Tu viện Bát-nhã (Vũng-tàu), đã xin phép Hòa Thượng được đứng ra in bộ Đại Bát Nhã này. Tôi có đề nghị với Đại Đức là hãy chờ chúng tôi nhuận văn xong rồi sẽ in, nhưng Đại Đức muốn giữ nguyên văn phong của Hòa Thượng. Bởi vậy, Hòa Thượng đã viết thư để Đại Đức Thích Thông Huyền đem trình Hòa Thượng Minh Châu, trực tiếp xin lại bản đánh máy thứ hai của Cảo Bản dịch phẩm Kinh Đại Bát Nhã (như đã nói trên), đem về Vũng-tàu, in và phổ biến. Thế là bộ Kinh Đại Bát Nhã do Đại Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm phiên dịch từ Hán ngữ ra Việt ngữ (với văn phong nguyên thỉ của Hòa Thượng) đã được ra đời! Sự phát tâm ấn hành của nhóm Tăng NiPhật tử thuộc Tu viện Bát-nhã ở Vũng-tàu, đã làm cho Hòa Thượng rất hoan hỉ, vì thấy công trình trân quí của mình đã được in thành sách (dù chưa được nhuận văn), và được lưu hành rộng rãi từ quốc nội ra đến hải ngoại.

Vậy, với ấn bản này của Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam, dịch phẩm Kinh Đại Bát Nhã của Đại Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm, hiện được lưu hành với hai ấn bản: một ấn bản chưa được nhuận văn (in năm 1997), và một ấn bản đã được nhuận văn (in năm 2003).

Pháp tử Tỳ kheo Thích Đỗng Minh 
trân trọng kính ghi 
Nha-trang, ngày Mồng Hai Tết Quí Mùi (2.2.2003)


THÀNH LẬP HỘI ĐỔNG PHIÊN DỊCH TAM TẠNG THÁNH GIÁO


Hội đồng phiên dịch Tam Tạng họp tại Viện Đại học Vạn Hạnh Sài Gòn vào những ngày 20, 21, 22.10.1973. Hội Đồng gồm tất cả 12 vị, dưới quyền Chủ Tọa T.T.Thích Trí Tịnh, T.T.Thích Minh Châu. Hội nghị thảo luận ráo riết trong mấy ngày, đến phần phân công phiên dịch kinh bộ, thì bộ Đại Bát Nhã 600 quyển giao cho T.T Thích Trí Nghiêm phiên dịch, T.T Thích Thiện Siêu duyệt khảo lại.

Trước Hội nghị này, tôi đã tự khởi dịch kinh này từ năm 1972 đã được gần 100 quyển. Sau Hội nghị tôi tiếp tục phiên dịch đến nay là xong 600 quyển.

 

HỔI HƯỚNG CÔNG ĐỨC


Xin đem công đức này hồi hướng về quả Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, cầu xin Chư Phật mười phương hiện đang thuyết PhápĐức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đồng dủ lòng từ bi gia hộ cho các vị Tăng Ni Phật tử, thiện nam tín nữ xa gần đã góp phần công đức vào việc phiên dịch, đánh máy, ấn loát Kinh Đại Bát Nhã này, đời hiện còn đây được thêm phần phước huệ thọ mạng đầy đủ dồi dào, đến lúc lâm chung sẽ được vãng sanh về mười phương cõi Phật, được nghe các Đức Phật kia thuyết pháp môn thâm diệu là Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa để thọ trì đọc tụng, tu tập, suy nghĩ, cúng dường lễ bái v.v…Bồi dưỡng căn lành Bát Nhãhạt giống căn lành sanh đẻ ra các Phật ba đời. Cuối cùng các Phật tử này sẽ đều được trọn thành Phật quả và khắp cầu nguyện tất cả pháp giới chúng sanh đều được nhờ công đức Bát Nhã thù thắng này đều trọn nên Phật đạo.

Ngưỡng vọng:

Nam Mô Bát Nhã Hội Thượng Phật Bồ Tát Ma Ha Tát chứng minh gia hộ .

Nam Mô Tam Châu cảm ứng Hộ Pháp Vi Đà Tôn Thiên Bồ Tát thủ hộ Pháp Bảo Bát Nhã này được lưu hành khắp mười phương thế giới trường tồn vĩnh viễn.

 Viết tại am Hoàng Trúc thuộc chùa Long Sơn trụ sở Tỉnh Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Khánh Hòa, Nha Trang vào ngày vía Đức Phật A Di Đà, Phật lịch 2524 (1980).

Dịch giả cẩn ghi
HT. Thích Trí Nghiêm

 

LỜI KÝ TAM TẠNG THÁNH GIÁO 


Đường triều Cao Tông Hoàng đế ngự chế ngày ở Cung Xuân

Nếu vì muốn hiển dương Chánh giáo, mà phi kẻ trí là không lấy ai để quảng đạt văn lý kia; muốn sùng trọng và mở mang rộng rãi những lời nhiệm mầu, phi kẻ hiền chẳng thể nào minh định được ý chỉ ấy. Bởi vì chân như Thánh giáohuyền tông của các pháp và là khuôn khổ của các kinh điển khác vậy.

Vì nó thâu tóm bao quát rộng xa, ý chỉ lại cực kỳ sâu thẳm , tột bực tinh vi của lý chơn không diệu hữu và là yếu cơ của thể sinh diệt nữa. Lời lẽ tú mậu, đạo lý mênh mông, nên kẻ tìm cầu chẳng cứu xét được nguồn văn tự rõ ràngý nghĩa lại càng thâm u và kẻ noi theo cũng chẳng lường được ngằn mé.

Nên mới biết Thánh Từ đã bao trùm thời không nghiệp thiện nào chẳng đến xong; diệu hóa được phơi bày là không duyên ác nào mà chẳng cắt đứt. Thế là đã mở giềng mối lưới pháp, hoằng dương Chánh giáo sáu độ để cứu vớt quần sinh nơi mê đồ, tức là tháo gỡ then chốt bí yếu của Tam tạng rồi đấy vậy.

Vậy nên gọi rằng chim không cánh mà vẫn bay luôn; Đạo không gốc mà cũng hằng vững chãi. Đạo danh lưu khánh, chảy lãng từ thuở xa xưa mà vẫn trấn thường; phó cảm ứng thân, trải qua trần kiếp cũng là bất hủ.

Mai chuông ngân, chiều kệ tụng, giao hòa hai tiếng nơi đỉnh Thứu Phong. Ánh huệ nhật, dòng pháp lưu, quay bánh xe nơi vườn Lộc uyển. Lọng báu che trên không, tiếp giáp mây ùng rồi cùng bay phất phới. Rừng xuân chốn đồng nội, cùng với hoa trời mà hợp lẫn sắc màu .

Cúi đầu kính chúc:

Hoàng Đế Bệ Hạ

Trên ban phước ấm đủ xuống mà bình trị tám hoang tai. Thánh Đức khắp trùm đến dân đen được vạn quốc xếp bè he mà triều bái. Ơn gia đến người quá cố; các thần dân đều biết quy về với kinh văn lá bối. Ơn Đức Thánh Vương, thấm nhuần đến vạn loại côn trùng. Đấng Kim Dung tuyên lời điệu kệ, để khiến nước hồ A Nậu Đạt thông suốt chảy về rẽ biệt tám nguồn; non Kỳ Xà Quật tiếp giáp với đỉnh Thung Hoa rừng cây xanh biếc.

Thiết nghĩ: Vì pháp tánh ngưng tịch, chẳng quy tâm thì làm sao thông đạt được; trí địa huyền áo phải khẩn thành may ra mới hiển hiện được Thế đâu với những đêm dài tối mịt, chợt thắp đuốc huệ sáng bừng, mà là dội trận mưa pháp vũ nơi nhà hỏa trạch.

Nơi đây trăm sông riêng chảy, cuối cùng vẫn quy về đồ⮧ hội biển cả bao dung; muôn khu phấn nghĩa, nhưng tổng quát thành hồ chân thật vậy thôi. Và đâu những so bề hơn kém cùng với Thang Võ, sánh đọ Thánh đức cùng với Nghiêu Thuấn vậy thay!

Nay đây, HUYỀN TRANG PHÁP SƯ là bậc túc duyên trí huệ, lập chí chân thật trực giản, tâm thần thanh nhã từ lúc thiếu thời, thể tánh siêu việt những phường phù hoa lãng mạn. Ngưng tình nơi tịnh thất, ổn dấu chấn u nham, nghỉ ngơi ở Tam thiền, rồi rảo bước lên hàng Thập địa. Vượt khỏi cảnh lục trần phiền lụy, mới đơn độc đi qua La Vệ và vào thành Ca Duy để lãnh hội tâm cơ của Nhất thừa diệu đạo, rồi tùy nghi mà hóa vật lợi sanh.

Vì lẽ ở Trung hoa không linh chất, nên mới tìm cầu chơn văn bên Ấn độ xa xôi; gian nan lặn lội dãy sông Hằng, quyết chí tìm tòi cho kỳ được mãn tự đạo pháp. Đã từng trèo lên non Tuyết Lãnh mà chỉ được nửa hạt chơn châu. Trên đường học đạo, cả đi lẫn về trọn vẹn mười bảy năm trời dằng dặc, mới thông đạt đầy đủ ý chỉ Tam tạng Thánh giáo, với mục đích duy nhấtlợi lạc quần sanh.

Sau khi về nước, chọn ngày lành tháng tốt: Mồng sáu tháng hai năm thứ mười chín niên hiệu Trinh Quán, mới phụng sắc lệnh nhà vua, rồi đem yếu văn của Tam tạng Thánh giáo cả thảy là sáu trăm năm mươi bảy bộ. Và lấy cảnh chùa Hoằng Phước mà làm nơi trụ xứ cho sự nghiệp phiên dịch kinh điển vĩ đại này.

Chẳng khác nào dẫn nguồn pháp thủy nơi đại dương bất tận về rửa sạnh ô nhiễm trần lao cho đời; truyền nối ánh sáng trí đăng vô cùng cực mà chiếu soi chốn u minh hắc ám được rực rỡ muôn đời. Nếu tự chẳng phải đã lâu đời vun trồng thắng duyên huệ nghiệp là làm sao xiển dương được ý chỉ như thế đây?

Nên kinh gọi :"Pháp tướng thường trụ". Trang Sư trí sáng ngang bằng nhật nguyệt tinh. Hoàng Đế ta phúc báo đã nhóm đầy, nên cơ nghiệp được vững bền đồng như trời đất

Nay cúi đầu xem thấy bài Ngự chế đề tựa ở các Kinh luận, đã từng soi sáng từ xưa đến nay, lý văn bao hàm tiếng vang vàng đá chạm reo và vẻ linh hoạt tươi nhuận của gió mây bay động. Để trị bồi phụ thêm ít đất, làm cho núi đủ cao lên, sương lộ giáng xuống nhiều dòng càng chảy mạnh, lược cử đại cương để làm lời ký này vậy.

Tỳ kheo THÍCH TRÍ NGHIÊM dịch
Tỳ kheo THÍCH THIỆN SIÊU khảo

 

TỰA SƠ HỘI KINH ĐẠI BÁT NHÃ


Đường triều Sa môn HUYỀN TRANG chế tác ở chùa Tây Minh

 

Kinh Đại Bát Nhã là lời tuyệt xướng của thời kỳ Hi Đại và là bến hiền lương của khoán kiếp xa xôi. Ánh hào quang đã bao trùm trời người thâu tóm chơn lẫn tục. Thật là áo chỉ nhập thần, là phù linh trấn cho hữu quốc vậy. Tự chẳng phải Thánh đức xa vời, triết nhân độc xuất thời Huyền âm chẳng lưu lộ, viên giáo khó thành xong.

Sở dĩ dấy nên các Hoàng Vương Đế Chúa đã từng tỏ bày xiển thuật những lời vàng soi ngọc ánh để tán dương sự việc xa cách ngàn xưa, mà lý lẽ sáng soi ba thời. Sầm uất vậy thay làvăn này, đầy đủ lắm ôi cũng chính ngày nay!

Nhưng mà toàn bộ chia thành hai mươi bốn sách. Ngày xưa chỉ mò được nửa hạt châu. Mà hội gồm cả mười sáu hội, nay mới nắm lấy được toàn viên ngọc. Vì thầm xét các hội đều có duyên khởi riêng và xét mỗi một bộ đều là đem về nơi gốc để rõ dấu vết riêng, nên mỗi hội phải làm riêng một bài tựa.

Đến như Linh Phong mới tập hợp, hoằng vận khắp tìm tòi, chỉ để suy rộng thân nguyên và mở sâu tâm yếu. Vì sao thế? Bởi lẽ năm uẩn là gói các loại hữu tình; hai ngã là gia trạch của hữu phong. Trạch và ngã mà cao là khát vọng chạy theo ánh nước dương diệm mới sâu; phong uẩn mà còn thời tìm cầu thành quách tầm hương lại càng rộng cao tót vót.

Dễ đâu biết rằng cội gốc của ngã là do tưởng, mà tưởng đã hư vọng thời ngã tồn tại vào đâu? Uẩn bị trói buộc bởi do danh, mà danh là giả dối thời uẩn cũng không nương đâu được còn!

Cho nên mới phải phát nơi đàm tức không, xiển xướng lý vong ngôn. Xem việc rắc rối của trần tục là phi động, coi loại côn trùng là bất sinh. Nghe danh vọng như tiếng vang, thấy sắc đẹp tựa thấy bóng trong gương. Thuyên Tể mất chỗ nương, nhiên hậu Chơn Tể mới độc lộ.

Khuôn thước đừng thi hành, nhiên hậu mới diệu lập thước nhiệm mầu. Lo đường ngàn mất, ngôn thuật bốn cùng.

Có thế mới khiến nổi những kẻ cạn vội được cơ hội co ngón mà tháo giải cùm tay và những người còn đang chầu Nam chực Bắc đều biết hướng quy về. Nghĩa lý đã rộng như trời, mà lời lẽ lại đầy nhẫy như biển. Vì làm căn bản cho các hội sau, lại là trước xưa chưa truyền đến. Trong hội này, kể khắc thành bốn trăm quyển cộng tám mươi lăm phẩm vậy.

Hoặc bảo: Quyền biến theo phương cõi , lẽ nên lược dịch. Thầm phản ứng rằng: Một lời có thể che trùm hết, mà còn phải chế tác ra liên chương nhã tụng. Niết Bàn khá đề, mà lời lẽ của hai chữ ấy phải chép thành pho tạng.

Thong thả nhu hòa, hưỡn đãi mở lối, kìa phải chăng là những lời dạy dỗ của Đấng Từ Mẫu ấy vậy ôi? Nếu dịch mà dám cắt bỏ bớt đi, sợ e để lại cái hoạn hại đứt tay cho đời sau không phải ít!

Nay dịch truyền này quyết phải theo đúng nguyên bản, hầu mới tránh khỏi chê bai là nhiều lời,. Huống chi thời đại chữ viết vào tre, gỗ, khái niệm còn tăng tổn mà hgồn phách giaop tiếp lờ mờ, nên lời răn dạy phải rất rõ ràng,trước sau cảm tạ ban cho. Như trong biệt lục mới chép đầy đủ.

Kìa ai là kẻ đã có sẵn đại tâm mậu khí và đã từng lâu đời học hỏi, nhiều kiếp phụng trì, mới tự gây được sự bất kinh bất bố, rồi tự tìm hỏi đò mà qua sông vậy.

Tỳ kheo THÍCH TRÍ NGHIÊM dịch
Tỳ kheo THÍCH THIỆN SIÊU khảo

 

THỪA SỰ TĂNG SAI
 

 Trong bộ truyện của Tam Tạng Pháp Sư quyển thứ mười, để ở chùa Đại Từ Ân, có đoạn tường thuật về việc Pháp Sư phiên dịch Kinh Đại Bát Nhã này; do Hội ấn hành kinh điển tại Hương Cảng có trích đăng nơi tập mục lục (1958). Tôi xin phụng dịch như sau:

"… Các nước phương Đông trọng kinh Bát Nhã. Đời trước tuy đã có phiên dịch nhưng chưa thể chu toàn đầy đủ, nên nhiều người lại muốn thỉnh Lệnh ủy dịch.

Song Bát Nhãbộ Kinh to tát, ở kinh đô nhiều việc rắc rối; lại nữa nhân mệnh vô thường, e khó được thành tựu viên mãn nên mới thỉnh xin dọn đến ở cung Ngọc Hoaphiên dịch. Nhà vua bằng lòng phê chuẩn ngay! Tức là mùa Đông tháng Mười, niên hiệu Hiển Khánh năm thứ tư, Pháp Sư từ kinh đô phát hướng về Ngọc Hoa cung, và cùng chư vị Đại Đức thuộc hội đồng phiên dịchmôn đồ thảy đồng hành nhất thể. Đến nơi, an trí tại Viện Túc Thành lấy làm trụ sở phiên dịch. Còn việc cung cấp các việc y như khi ở kinh sư.

Đến ngày Nguyên đán tháng Giêng mùa Xuân năm thứ năm khởi đầu dịch kinh Đại Bát Nhã. Bản chữ Phạn tổng có hai mươi vạn bài tụng. Văn đã rộng lớn, kẻ học đồ muốn cầu thỉnh xin lược bớt; nên Pháp Sư hầu muốn thuận theo ý chúng, như ngài La Thập đã làm, cắt bỏ bớt những đoạn văn phiền phức trùng điệp. Khởi nghĩ ấy rồi, đêm nằm mộng thấy có những sự trạng để răn cảnh giới nhau, như hoặc thấy bay lên trên cao nguy, đi nơi hiểm khốn, hoặc thấy thú dữ bắt người v.v…; run sợ toát mồ hôi mới được thoát khỏi. Khi đã tỉnh giấc kinh hãi, đến các chúng nói lại việc ấy và lại y như Kinh phiên dịch rộng đủ. Trong đêm bèn thấy chư Phật Bồ Tát phóng hào quang nơi chặng giữa mày mắt soi xúc thân mình, tâm ý vui thích. Pháp Sư lại tự thấy tay cầm đèn hoa cúng dường chư Phật, hoặc thấy thăng lên tòa cao vì chúng thuyết pháp, có nhiều người vây quanh ngợi khen cung kính, hoặc mộng thấy có người đem danh quả phụng biếu cho mình; tỉnh giấc vui mừng chẳng dám cắt bỏ bớt, nhất nhất đúng như bản chữ Phạn mà dịch.

Đức Phật thuyết Kinh này tính ở bốn chỗ:

  1. Núi Thứu Phong nơi thành Vương Xá;
  2. Vườn Cấp Cô Độc;
  3. Cung Trời Tha Hóa Tự Tại
  4. Tịnh Xá Trúc Lâm thành Vương Xá.

Tổng cộng 16 Hội, hợp thành một bộ. Nhưng Pháp Sư từ ở Ấn Độtìm được ba bản; đến ngày phiên dịch đây, trong văn có chỗ nghi ngờ, tức đem ba bản so sánh lấy làm quyết định; ân cần tra xét lại kỹ càng rồi mới chịu hạ bút thành văn. Tâm ý tra xét cẩn thận đúng mức , thật từ xưa chẳng sánh kịp. Hoặc văn trái với ý chỉ sâu thẳm, ý hiểu còn có do dự rụt rè, tất cảm giác cảnh lạ, tuồng như có người trao cho minh quyết, tâm trí liền rỗng vỡ vạc thông suốt, như vẹt mây mù mà thấy mặt trời. Pháp Sư tự nói rằng: "Chỗ ngộ hội như đây đâu phải trí cạn cợt Huyền Trang tôi mà thông suốt được, đều là được chư Phật Bồ Tát đã âm thầm gia hộ vậy".

Hội thứ nhất của Kinh có phẩm Nghiêm tịnh cõi Phật. Trong ấy nói :"Các chúng Bồ Tát Ma ha tátBát Nhã Ba La Mật Đa, dùng thần thông nguyện lực đựng các ngọc báu thượng diệu, các diệu hương hoa, uống ăn trăm vị, áo mặc, âm nhạc của cõi Đại Thiên tùy ý sanh ra năm trần diệu cảnh, các thứ cúng dường để trang nghiêm chỗ thuyết pháp". Lúc ấy, Ngài tự chủ chùa Ngọc Hoa hiệu Huệ Đức và các Ngài Đại đức Tăng hội đồng dịch Kinh, trong đêm ấy đồng mộng thấy trong nội cảnh chùa Ngọc Hoa rộng rãi nghiêm tịnh lịch đẹp trang nghiêm: Nào là phan trướng, xe báu, nào là tràng hoa, kỹ nhạc v.v… đầy nhẫy trong nội cảnh chùa. Lại thấy có vô lượng Tăng chúng tay cầm lọng hoa và đồ cúng dường như trên đồng đến cúng dường Kinh Đại Bát Nhã. Những đường sá tường vách trong khu vực chùa đều trang hoàng dẹp đẽ, đất đầy danh hoa, Tăng chúng đồng giẫm trên mà đi. Đến như Viện phiên kinh, nơi Viện lại càng bội phần đẹp đẽ lạ lùng, như Kinh đã chép cõi bảy báu trang nghiêm. Lại nghe thấy trong Viện có ba gian nhà để giảng thuyết, Pháp Sư ngồi gian giữa diễn giảng. Đã thấy đấy rồi, vui mừng thức giấc, đồng đến thăm hỏi nói việc đã thấy trong mộng với Pháp Sư. Pháp Sư bảo:"Nay chính dịch phẩm này, các Bồ Tát thảy tất có cúng dường. Các Thầy đã mộng thấy, tin có việc ấy. Ôi".

Bấy giờ, bên điện có hai cây mít, bỗng lúc phi thời lần lượt nở hoa, mỗi hoa đều nở sáu đóa thịnh mậu, sắc hồng trắng, thật đáng yêu phi thường. Lúc đấy Tăng chúng luận nghị rằng: "Đây chính là triệu chứng điềm lành Bát Nhã được tái xiển dương lại; lại ra sáu quả là tiêu biểu sáu Ba La Mật Đa".

Nhưng Pháp Sư khi dịch kinh này, tâm chí miệt mài và hằng lo lắng vô thường , nên mới bảo chư Tăng rằng: "Huyền Trang tôi năm nay đã sáu mươi lăm tuổi, chắc sẽ bỏ mạng ngôi già lam này; bộ Kinh này rất lớn lao, hằng lo sợ việc làm chẳng trọn vẹn, người người nên nỗ lực gia công tinh tiến, rất chớ nên vì khó nhọc mà từ nan!".

 

Đôi nét về Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm

ontringhiem

Thân thế:

Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm thế danh là Phan Diệp, sinh ngày 9 tháng Giêng năm Tân Hợi (1911) tại Thôn Chánh Lộc, Xã Xuân Lộc, Huyện Đồng Xuân, (thuộc Huyện Sông Cầu ngày nay), Tỉnh Phú Yên. Thân phụ là Cụ Ông Phan Châm. Thân mẫu là Cụ Bà Nguyễn thị Tham. Ngài là người con thứ hai trong gia đình có năm anh chị em. Gia đình Ngài là một gia đìnhtruyền thống nhiều đời uy tín Tam Bảo.

Xuất gia tu học:

Ngài húy là Tâm Bổn, tự là Truyền Lai, hiệu là Trí Nghiêm dòng Lâm Tế đời thứ 43.

_Năm 15 tuổi (1926) xuất gia thọ giới với Ngài Vĩnh Hảo Đại Sư (cũng là cậu ruột của Ngài) tại chùa Phước Long, Xã Xuân Lộc, Huyện Đồng Xuân, Tỉnh Phú Yên.

_Năm 22 tuổi (1933), Ngài thọ Đại Giới, tại Giới Đàn Chùa Bảo Sơn Phú Yên do Hòa thượng Vạn Ân làm Đàn Đầu.

_Năm 27 tuổi (1938) Ngài được trúng tuyển vào tu học tại Phật Học Đường Bảo Quốc Huế. Tại đây Ngài đã được sự truyền dạy của Hòa Thượng Thích Trí Độ, một vị Đốc Giáo danh đức thời bấy giờ. Chính nơi đây đã đào tạo nhiều vị Tăng tài lỗi lạc cho Phật Giáo nước nhà hiện nay. Ngài đã tu học tại Phật Học Đường này 8 năm.

Đạo Nghiệp :

_ Năm 1944 (34 tuổi), sau khi mãn học, Ngài đã bắt đầu công việc hoằng hóa bằng việc lưu hành diễn giảng Giáo lý tại các Tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên…

_ Năm 1945 (35 tuổi), Ngài trở về Phú Yên làm trụ trì chùa Thiên Tôn ở Tuy An 9 năm. Trong thời gian này Ngài đã tham gia Phật Giáo Cứu Quốc thuộc liên khu V.

_ Năm 1955 Ngài lại tiếp tục công cuộc hoằng hóa, chuyên lo giảng dạy Phật Pháp tại các Tỉnh Hội Phật Học : Phú Yên, Khánh Hòa. Lúc này Ngài được coi là vị Giảng Sư kỳ cựu của Hội Phật Học Miền Trung.

_ Năm 1956, Ngài chủ trương xây dựng Trường Bồ Đề Tuy Hòa và Cô nhi viện Phước Điền Tuy Hòa, Phú Yên.

_ Năm 1957, theo thỉnh cầu của Giáo Hội, Ngài ra giữ chức Hội Trưởng Hội Phật Học Thừa Thiên Huế.

_ Năm 1960, Ngài vào thường trú để lo Phật sự tại chùa Long Sơn, trụ sở Tỉnh Giáo - Hội Phật Giáo Khánh Hòa Nha Trang hiện nay.

_ Năm 1964, Ngài là thành viên của Hội Đồng Giáo phẩm Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam thống nhất.

_ Năm 1966, Ngài giữ chức Chánh Đại Diện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam thống nhất Khánh Hòa - Nha Trang.

_ Năm 1968, Ngài là Chứng Minh Đạo Sư của Tỉnh Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam thống nhất Khánh Hòa - Nha Trang.

_ Năm 1968, Ngài là Đệ nhị Tôn Chứng tại Đại Giới Đàn Hải Đức Nha Trang (lần 2).

_ Năm 1973, Ngài làm Giáo Thọ tại Đại Giới Đàn Phước Huệ Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang.

_ Năm 1974, Ngài làm giám luật Ban Quảng trị Viện Cao đẳng Phật học Hải Đức Nha Trang.

_ Năm 1977, Ngài được Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nhiên, Đệ nhị Tăng Thống GH. PG. VN TN. tấn phong Hòa Thượng.

_ Năm 1980 - Dịch xong bộ Đại Bát Nhã Kinh

_ 1980 - đến nay tiếp tục nghiên cứuphiên dịch Kinh điển Đại Thừa tại tại Am Hoàng Trúc - thành phố Nha Trang.

Phiên dịch kinh luận:

Mặc dù bận nhiều Phật sự về lãnh đạo và hoằng hóa, nhưng Ngài vẫn tinh tấn chăm lo phiên dịch kinh luận để tiếp dẫn hậu lai.

1- Kinh Lời Vàng : Nguyên danh kinh là "Phật Giáo Thánh kinh", 1 quyển, do nữ cư sĩ Trung Hoa là Dương Tú Hạc biên soạn.

2- Kinh Phổ Môn giảng lục : 1 quyển, do Bảo Tịnh Pháp Sư giảng (dịch năm 1969).

3- Kinh Pháp Hoa giảng lục : 1 bộ, 7 quyển, 2 tập, do TháiPháp Sư giảng (dịch năm 1969)

4- Luận Thành Thật : 20 quyển, do Ha Lê Bạt Ma Tát soạn.

5- Kinh Đại Bát Nhã 24 tập, 600 quyển, 5 triệu chữ (5.000.000), do Huyền Trang Hán dịch. Khởi dịch từ năm 1973 đến năm 1980 mới hoàn tất.

Bốn kinh luận đầu đã in, riêng "Kinh Lời Vàng" và "Kinh Pháp Hoa - giảng lục" đã được tái bản một hai lần, " Kinh Đại Bát Nhã; đã in 2 lần, lần mới nhất là năm 1998 tại Sài gòn.

Ngoài ra, còn 10 bộ kinh nhỏ chưa in.

Từ năm 1981, Ngài là Chứng minh Ðạo Sư của tỉnh Giáo Hội Phật Giáo Khánh - Hòa Nha Trang.

Sau một thời bệnh nặng, mặc dù đã được hàng đệ tử, các giáo sư bác sĩ và y sĩ bệnh viện Thành phố Nha Trang tận tình chăm sóc chữa trị. Nhưng vì tuổi cao sức yếu, Ngài không vượt qua khỏi, Ngài đã an tường xả báo thân lúc 2 giờ sáng ngày 13 tháng 01 năm 2003 (nhằm ngày 11 tháng chạp năm Nhâm Ngọ) thọ thế 93 tuổi, 70 tuổi đạo.

Suốt cuộc đời, từ khi xuất gia hành đạo cho đến lúc viên tịch, Ngài đã nỗ lực không ngừng trong công việc xiển dương đạo pháp. Cuộc đời Ngài là một tấm gương sáng ngời về đạo hạnhsự nghiệp hoằng hóa cho Tăng niPhật tử noi theo. Mặc dù sắc thân của Ngài không còn nữa nhưng đạo hạnhsự nghiệp hoằng hóa của Ngài sẽ mãi mãi là ngọn đuốc soi đường cho Tăng Ni Phật tử hậu lai.

Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng, lược ghi

 

Gom lại trong 11 tập PDF [1][2][3][4][5][6][7][8][9][10][11]

Xem thêm nguyên tác 600 quyển đã phiên âm Hán Việt

Phần A: [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] [13] [14] [15] [16] [17] [18] [19] [20] [21] [22] [23] [24] [25] [26] [27] [28] [29] [30] [31] [32] [33] [34] [35] [36] [37] [38] [39] [40] [41] [42] [43] [44] [45] [46] [47] [48] [49] [50] [51] [52] [53] [54] [55] [56] [57] [58] [59] [60] [61] [62] [63] [64] [65] [66] [67] [68] [69] [70] [71] [72] [73] [74] [75] [76] [77] [78] [79] [80] [81] [82] [83] [84] [85] [86] [87] [88] [89] [90] [91] [92] [93] [94] [95] [96] [97] [98] [99] [100] [101] [102] [103] [104] [105] [106] [107] [108] [109] [110] [111] [112] [113] [114] [115] [116] [117] [118] [119] [120] [121] [122] [123] [124] [125] [126] [127] [128] [129] [130] [131] [132] [133] [134] [135] [136] [137] [138] [139] [140] [141] [142] [143] [144] [145] [146] [147] [148] [149] [150] [151] [152] [153] [154] [155] [156] [157] [158] [159] [160] [161] [162] [163] [164] [165] [166] [167] [168] [169] [170] [171] [172] [173] [174] [175] [176] [177] [178] [179] [180] [181] [182] [183] [184] [185] [186] [187] [188] [189] [190] [191] [192] [193] [194] [195] [196] [197] [198] [199] [200

 Phần B: [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] [13] [14] [15] [16] [17] [18] [19] [20] [21] [22] [23] [24] [25] [26] [27] [28] [29] [30] [31] [32] [33] [34] [35] [36] [37] [38] [39] [40] [41] [42] [43] [44] [45] [46] [47] [48] [49] [50] [51] [52] [53] [54] [55] [56] [57] [58] [59] [60] [61] [62] [63] [64] [65] [66] [67] [68] [69] [70] [71] [72] [73] [74] [75] [76] [77] [78] [79] [80] [81] [82] [83] [84] [85] [86] [87] [88] [89] [90] [91] [92] [93] [94] [95] [96] [97] [98] [99] [100] [101] [102] [103] [104] [105] [106] [107] [108] [109] [110] [111] [112] [113] [114] [115] [116] [117] [118] [119] [120] [121] [122] [123] [124] [125] [126] [127] [128] [129] [130] [131] [132] [133] [134] [135] [136] [137] [138] [139] [140] [141] [142] [143] [144] [145] [146] [147] [148] [149] [150] [151] [152] [153] [154] [155] [156] [157] [158] [159] [160] [161] [162] [163] [164] [165] [166] [167] [168] [169] [170] [171] [172] [173] [174] [175] [176] [177] [178] [179] [180] [181] [182] [183] [184] [185] [186] [187] [188] [189] [190] [191] [192] [193] [194] [195] [196] [197] [198] [199] [200]

  Phần C: [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] [13] [14] [15] [16] [17] [18] [19] [20] [21] [22] [23] [24] [25] [26] [27] [28] [29] [30] [31] [32] [33] [34] [35] [36] [37] [38] [39] [40] [41] [42] [43] [44] [45] [46] [47] [48] [49] [50] [51] [52] [53] [54] [55] [56] [57] [58] [59] [60] [61] [62] [63] [64] [65] [66] [67] [68] [69] [70] [71] [72] [73] [74] [75] [76] [77] [78] [79] [80] [81] [82] [83] [84] [85] [86] [87] [88] [89] [90] [91] [92] [93] [94] [95] [96] [97] [98] [99] [100] [101] [102] [103] [104] [105] [106] [107] [108] [109] [110] [111] [112] [113] [114] [115] [116] [117] [118] [119] [120] [121] [122] [123] [124] [125] [126] [127] [128] [129] [130] [131] [132] [133] [134] [135] [136] [137] [138] [139] [140] [141] [142] [143] [144] [145] [146] [147] [148] [149] [150] [151] [152] [153] [154] [155] [156] [157] [158] [159] [160] [161] [162] [163] [164] [165] [166] [167] [168] [169] [170] [171] [172] [173] [174] [175] [176] [177] [178] [179] [180] [181] [182] [183] [184] [185] [186] [187] [188] [189] [190] [191] [192] [193] [194] [195] [196] [197] [198] [199] [200]


Ý kiến bạn đọc
12 Tháng Mười Hai 202013:03
Khách
1 bộ 24 quyển ấn tống sau ah
12 Tháng Mười 201912:29
Khách
Cho tôi xin bản pdf Kinh Đại Bát Nhã do thượng tọa Thích Trí Nghiêm dịch để đọc và tưởng nhớ về ông tôi là người đã dịch kinh.Tôi xin chân thành cảm ơn
17 Tháng Tư 201703:35
Khách
xin bản pdf Kinh Đại Bát Nhã
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12530)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14116)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10859)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10530)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11204)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12012)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13168)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13661)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33684)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11348)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12944)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13069)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11643)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17910)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11453)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11871)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11520)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18989)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12564)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11352)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13157)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15789)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11832)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11706)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12785)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12643)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13979)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13007)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12958)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13307)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12785)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12718)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11765)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11744)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12350)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12397)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19838)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11979)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12001)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16898)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12685)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15073)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16133)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12900)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12256)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11930)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11936)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13166)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16521)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13239)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12507)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11835)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19874)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11172)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11272)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10411)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11108)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10983)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10050)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11762)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant