Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

5. Chùa tháp và sự thờ cúng

02 Tháng Ba 201100:00(Xem: 10957)
5. Chùa tháp và sự thờ cúng

TĂNG ĐỒ NHÀ PHẬT (HÁN VIỆT)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

CHÙA THÁP VÀ SỰ THỜ CÚNG

Chùa tháp là những nơi quan trọng, cần thiết trong đời sống chung của xã hội từ xưa đến nay. Chùa là nơi mà tăng chúng truyền giảng đạo lý và hóa độ cho hàng cư sĩ, khiến họ kính tín, quy y Tam bảo và sống cuộc sống chân chính của người Phật tử. Ngôi chùa cũng là nơi thực hiện các nghi lễ cúng kính quan trọng nhất của Phật giáo. Tháp là những nơi được dựng nên để cung kính thờ phụng các đức Phật, thường là được truyền nối từ đời này sang đời khác. Nhiều tháp Phật danh tiếng qua nhiều ngàn năm nay vẫn còn đứng vững.

Vào thời Phật tại thế, hình thức đầu tiên của chùa chiền chính là những khu tinh xá. Sau khi Phật thành đạo và đi khắp nơi giáo hóa, số đệ tử xuất gia theo ngài ngày càng đông hơn. Với những bậc trưởng lão đã đắc đạo, thực hiện đời sống khất thực không nhà, đêm ngủ nơi gốc cây, thì việc cất chùa là không cần thiết. Các vị chẳng tham luyến ở những nơi êm ấm, mà chỉ chuộng cuộc sống khất thực không nhà để có thể hóa độ khắp nơi. Nhưng với những người mới xuất gia, và số này rất đông, cần phải có một nơi để họ ở yên trong thời gian còn phải học hỏi. Chính tại nơi ấy, Phật mới có thể truyền dạy cho họ những kiến thức đầu tiên về cuộc sống tu hành, giúp họ có được những vốn liếng tinh thần tối thiểu để sau đó mới có thể tự mình vững bước trên đường đạo mà không sợ lầm đường lạc lối. Xét rõ nhu cầu ấy, vua Tần-bà-sa-la, một vị vua hết sức ủng hộ Phật pháp, đã cúng dường cho Phật và Giáo hội khu tinh xá Trúc Lâm ở gần kinh thành Vương-xá, trong ấy có đủ chỗ ở cho tất cả Giáo hội thời bấy giờ.

Về sau còn có một thương gia là ông trưởng giả Tu-đạt đã mua khu vườn của thái tử Kỳ-đà và xây dựng thành một khu tinh xá gọi tên là tinh xá Kỳ Viên, dâng cúng cho Phật và giáo hội để làm chỗ tu tậpgiáo hóa cho bá tánh trong thành Xá-vệ. Đó là những cảnh chùa xuất hiện sớm nhất trong lịch sử Phật giáo.

Về sau, việc xây dựng chùa chiền vẫn thường noi theo như trước. Người ta chọn những nơi thanh vắng, yên tĩnh, xa những tiếng ồn ào của thị tứ, và xây dựng đủ các phòng ốc cần thiết cho sinh hoạt của một tập thể tu tập. Trong đó phải có chánh điện thờ Phật, liêu phòng của vị trú trì, nhà bếp, nhà ăn, lại phải có chỗ để chư tăng phương xa ghé lại có thể nghỉ ngơi, kể cả chỗ nghỉ dành cho bá tánh nữa. Ngoài ra còn phải có giảng đường làm nơi thuyết pháp hoặc tụng đọc giới bổn, phòng cất giữ kinh sách... Cuối cùng là phải đảm bảo nơi vệ sinh công cộng, như nhà tắm, nhà tiêu...

Chùa ở miền Tây Tạng thường xây dựng rất to lớn, đồ sộ, bởi ở xứ ấy người ta mộ đạo Phật. Chẳng những đạo Phậtquốc giáo, mà ngày xưa những người cầm quyền chính trị trong nước cũng chính là một vị tăng. Chùa chiền ở Tây Tạng cũng là những trường học tổng hợp, dạy cho người ta đủ các môn khoa học như đạo đức, triết lý, thần học, chiêm tinh, y học, mỹ thuật...

Tuy là chọn những nơi yên tĩnh, nhưng chùa chiền thường cũng không xây dựng ở chỗ quá hẻo lánh. Khác với những am, cốc... là nơi chỉ chuyên dành cho các vị tăng sĩ muốn tập trung hết tinh thần vào việc tu tập; chùa chẳng những là nơi tu tập mà còn là nơi để truyền bá giáo lý nhà Phật, là chỗ dựa tinh thần cho bá tánh nhân dân. Vì vậy, chùa phải chọn nơi thuận tiện đường giao thông, hoặc ít ra cũng không quá khó đến. Lý tưởng nhất là chùa nằm cách khu dân cư không xa lắm để người dân có thể tìm đến bất cứ lúc nào, nhưng cũng không quá ồn ào ảnh hưởng đến việc tu tập của chư tăng. Ở những vùng có núi non, chùa thường được chọn cất trên núi nhưng có đường lên, để vừa yên tĩnh vừa có thể là nơi bá tánh tụ họp dễ dàng.

Nhiều nơi sẵn có địa thế thiên nhiên, người ta có thể sửa sang các hang động tự nhiên trong núi non lại đôi chút, cũng tạo thành được những ngôi chùa đẹp và thuận tiện cho chư tăng tu tập.

Dù là chùa ở nơi đất bằng, triền núi hay hang động, kiểu cách có phần nào khác nhau, nhưng cách bài biện, thờ phụng cũng đều có những nét chung như nhau. Vật dụng, giường ghế, hầu hết đều vừa phải với nhu cầu sử dụng, chủ yếu là cần có để dùng chứ không chạy theo sự phô trương, chưng diện. Nhất là các ngôi chùa ở chốn núi non, hang động thì lại càng đơn sơ hơn hết.

Trong Phật giáo, sự thờ cúng cung kính nhất là xá-lỵ Phật. Đó là những tro cốt còn lại sau khi người ta làm lễ thiêu xác Phật. Những xá-lỵ ấy được thờ kính như Phật còn tại thế. Người ta mong muốn được thờ cúng những xá-lỵ của Phật, vì họ tôn kính Phật và giáo pháp của ngài. Khi ngài nhập diệt, người ta nghĩ rằng chỉ còn có cách ấy để được gần gũi Phật. Vì thế, sau khi Phật nhập diệt, các vị vua chúa đương thời đã mang cả quân binh đến để giành lấy xá-lỵ Phật. Cũng may là vẫn còn các vị đệ tử lớn, khéo đem giáo pháp của Phật ra mà khuyên dạy họ, khiến cho hết thảy đều hòa hoãn mà phân chia nhau, không đến nỗi xảy ra cuộc đao binh.

Ngoài xá-lỵ Phật, người ta cũng giữ lại những vật dụng mà Phật đã dùng để thờ kính. Nhưng chỉ có xá-lỵ Phật là tồn tại lâu dài, còn những vật dụng khác đều hư nát theo thời gian, đến nay không còn nữa. Tuy nhiên, có những nơi Phật đã đi qua trên đường giáo hóa, vẫn còn để lại nhiều dấu tích. Những nơi ấy đều được xây dựng thành chùa lớn để thờ cúng và làm chỗ cho thập phương tín đồ về chiêm ngưỡng.

Có những nơi mà tín đồ Phật giáo khắp nơi trên thế giới đều mong muốn được có một lần đến lễ bái, chiêm ngưỡng. Đó là bốn thánh địaliên quan chặt chẽ đến cuộc đời đức Phật. Một là vườn Lam-tỳ-ni, nơi Phật đản sanh. Hai là cây bồ-đề nơi Phật thành đạo ở xứ Già-da. Ba là vườn Lộc, thường gọi là Lộc uyển ở xứ Ba-la-nại, nơi Phật thuyết pháp lần đầu tiên, gọi là Chuyển pháp luân. Bốn là chỗ hai cây sa-la xứ Câu-thi-na, nơi Phật nhập diệt. Bốn thánh tích ấy từ bao đời qua vẫn được giữ gìn cẩn thận và là nơi chiêm ngưỡng cho hàng triệu tín đồ Phật giáo ở khắp nơi trên thế giới. Chính như ngài Huyền Trang ở Trung Hoa khi sang Ấn Độ thỉnh kinh cũng có kể lại việc đến chiêm ngưỡng các thánh tích ấy.

Tuy vậy, nhìn chung thì rất ít người có đủ may mắn để được đến lễ Phật trước nơi thờ xá-lỵ Phật, hoặc những nơi thánh tích. Vì vậy, người ta phải tạo ra những hình tượng của Phật để thờ cúng. Hình tượng của Phật tuy là do nơi một gốc mà ra, nhưng ở mỗi xứ sở khác nhau đều có cách thể hiện riêng của mình. Một mặt là do nơi nghệ thuật điêu khắc, tô vẽ ở nơi đó. Mặt khác, cũng phụ thuộc vào cách hiểu, cách suy nghĩ của con người ở đó về Phật pháp. Bởi vậy, ta không nên lấy làm lạ khi thấy pho tượng Phật ở Thái Lan không hoàn toàn giống với tượng PhậtTrung Quốc, lại càng không giống với Nhật Bản hay Triều Tiên. Nhưng những nét chính thì quả thật vẫn rất dễ nhận ra.

Ở các chùa, tượng Phật chính được thờ là tượng Phật tổ Thích-ca. Theo Nam tông, người ta chỉ thờ độc tôn, nghĩa là riêng một tượng đức Thích-ca trên chánh điện mà thôi. Đối với Bắc tông, người ta tin rằng Phật có rất nhiều hóa thân, mà hết thảy đều không ngoài ý nghĩa giác ngộ viên dung. Vì vậy, có thể tùy theo hoàn cảnh, ý nghĩa mà sự cung kính cũng có những đối tượng khác nhau. Do đó, ngoài tượng Phật Thích-ca, trong chùa còn thờ nhiều tượng khác như Phật Di-lặc, Phật A-di-đà, Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Địa Tạng ...

Cũng vậy, ở nhà riêng của hàng cư sĩ, người ta không chỉ thờ riêng là đức Phật tổ Thích-ca. Người ta còn có thể thờ các vị Phật và Bồ Tát khác nữa. Tuy nhiên, khác với ở chùa, có thể đồng thời thờ rất nhiều hình tượng, ở nhà riêng thì người ta thường chỉ chọn thờ một trong các hình tượng phù hợp với sở nguyện của mình mà thôi.

Phần đông cư sĩ tại gia mong cầu sự bình an trong gia đình là chính. Vì thế, đa số gia đình chọn thờ tượng Bồ Tát Quán Thế Âm. Đây là vị Bồ Táthạnh nguyện cứu khổ ban vui cho hết thảy chúng sanh, chỉ cần ai xưng niệm danh hiệu của ngài, là ngài sẽ quán xét theo âm thanh đó mà đến cứu khổ cứu nạn cho. Chính vì vậy mà ngài lấy hiệu là Quán Thế Âm. Hạnh nguyện của vị Bồ Tát này được Phật nói rõ trong phẩm Phổ Môn, thuộc bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa.

Cũng có một số cư sĩ tại gia thờ tượng Phật tổ Thích-ca. Một số tu theo pháp môn Tịnh Độ thì thờ tượng Phật A-di-đà, hoặc Bồ Tát Địa Tạng.

Việc thờ Phật ở nhà riêng thường kết hợp với bàn thờ tổ tiên, theo cách bố trí là thờ Phật trên cao và thờ ông bà tổ tiên dưới bàn thấp hơn. Tuy nhiên, nhất thiết phải có hai lư cắm hương riêng biệt.

Hình thức thờ Phật ở nhà riêng ngày nay phổ biến khá rộng rãi. Điều đó rất có lợi cho việc truyền bá giáo pháp của Phật, vì những cư sĩthờ Phật ở nhà thường mời thỉnh các vị tăng sĩ đến nhà để tụng kinh hộ niệm, hoặc cầu an, hoặc cầu siêu, trong những khi gia đình hữu sự. Nhất là việc tụng kinh A-di-đà vào những ngày kỵ giỗ ông bà tổ tiên là điều rất tốt, vì nhân đó mà người ta thường cúng chay, hạn chế được sự sát sanh. Những dịp được mời đến nhà cư sĩ để tụng kinh là những dịp tốt để chư tăng truyền dạy Phật pháp cho hàng cư sĩ, đồng thời trừ phá những sự mê tín dị đoan, tà kiến trong chốn dân gian. Và quan trọng hơn hết là làm cho hàng cư sĩ hiểu rõ được ý nghĩa đúng đắn của việc thờ Phật.

Thờ Phật ở nhà là sự nhắc nhở hàng ngày để người cư sĩ không quên lời Phật dạy, luôn cố gắng giữ tròn Năm giới mà mình đã thọ nhận, cũng như giao tiếp, ứng xử trong cuộc sống phải giữ cho phù hợp với lời Phật dạy. Tuy nhiên, cũng có không ít cư sĩ không hiểu được ý nghĩa chân chính này, xem việc thờ Phật như để cầu xin được ban phước tránh họa, hoặc có thể giúp mình có nhiều may mắn hơn trong cuộc sống. Cách hiểu này không phù hợp với lý nhân quả của nhà Phật, khiến cho người ta thường trở nên tiêu cực, thụ động, quên mất rằng những việc tốt xấu trong đời hết thảy đều do nơi nghiệp nhân mà mình đã tạo ra dẫn đến.

Đạo Phật truyền vào nước ta từ rất sớm. Cho đến những năm đầu của thế kỷ 11, đạo Phật đã trở thành quốc giáo. Từ đó về sau, từ vua chúa cho đến quan thuộc cũng đều hết lòng ủng hộ Phật pháp, thậm chí có nhiều vị vua về cuối đời cũng chính thức xuất gia. Vì vậy, đạo Phật đã hình thành và phát triển khắp mọi miền đất nước, từ thành thị đến nông thôn. Việc thờ cúngtin theo Phật đã trở nên quen thuộc ở khắp nơi, đâu đâu cũng có.

Tuy nhiên, Phật giáo không chuộng ở số lượng mà chủ yếu xem trọng hiệu quả thực tiễn của việc truyền dạy giáo pháp. Vì vậy, việc giảng giải ý nghĩa chân chính của việc thờ cúng cho hàng cư sĩ được rõ hiện nay vẫn còn là một trách nhiệm quan trọng, nặng nề nhất của các vị tăng sĩ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32611)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6439)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11096)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30233)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30314)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7884)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12039)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12159)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11497)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12590)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34457)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9724)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52120)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10628)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10388)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10594)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10344)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12973)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16082)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21645)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9521)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7006)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10297)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12532)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12653)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16119)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16397)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13736)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16407)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11963)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13697)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14230)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9123)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11665)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11190)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16129)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16107)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12619)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11952)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11684)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15551)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11408)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13929)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11909)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12516)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14865)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11880)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13032)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14385)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20542)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13113)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10855)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20567)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14233)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20155)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17469)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13857)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31741)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11909)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant