Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Cơn Mưa Cam LồCúng Dường Sur

29 Tháng Tám 202108:25(Xem: 4419)
Cơn Mưa Cam Lồ – Cúng Dường Sur
Cơn Mưa Cam LồCúng Dường Sur
Những Chỉ Dẫn Chung Và Riêng Cần Thiết Để Cúng Dường Sur

Patrul Rinpoche
Pema Jyana

Bước Vào Con Đường Kim Cương Thừa

 

Bản văn này được Orgyen Tobgyal Rinpoche mạnh mẽ khuyến khích với những vị mong muốn làm sâu sắc sự hiểu của họ về thực hành Sur[1]. Trong bản văn này, Patrul Rinpoche[2] miêu tả một cách cô đọng mà sinh động mọi kiểu khách mời khác nhau mà chúng ta mời đến một lễ cúng dường Sur. Những miêu tả này mở rộng hơn rất nhiều so với những gì được tìm thấy trong các nghi thức Sur, giúp chúng ta phát khởi lòng sùng mộ với những vị mà chúng ta thỉnh mờiniềm tinlòng bi mẫn với người ăn xin, kẻ vô gia cư, tu sĩ sa ngãtinh linh ác độc, những vị là đối tượng chính yếu của sự trao tặng. Patrul Rinpoche thêm vào một phần đặc biệt cho những tinh linh thống trị quê nhà của Ngài ở Tây Tạng – như Dilgo Khyentse Rinpoche viết, “Kham trong quá khứ thường có nhiều ma quỷtinh linh xấu và đây là một trong những lý do mà Patrul Rinpoche thường giải thích Nhập Bồ Tát Hạnh liên tục cho các học trò. Chẳng bao lâu sau, chẳng còn ma quỷ nữa – hay ít nhất, không ai gặp phải nguy hại nào nữa. Đấy là sức mạnh ẩn giấu của Bồ đề tâm!”. Lòng bi mẫn của Patrul Rinpoche thật rõ ràng trong suốt bản văn, đặc biệt trong miêu tả của Ngài về người ăn xin, những vị được dành cho hai phần. Với mỗi kiểu khách mời, chúng ta được chỉ dẫn về cách mà chúng ta cần dâng các cúng dường và điều mà chúng ta cần yêu cầu họ. Bản văn này là chỉ dẫn vô giá với hành giả Kim Cương thừa.

Om Ah Hung

Đàn tràng lửa đốt các cúng phẩm và tỏa những tia sáng thuần tịnh, thứ kết hợp với khói, bay lên thành những đám mây lớn cam lồ trí tuệ, phương thuốc cho các ma vương[3]. Các cúng phẩm làm hài lòng những Đấng Chiến Thắng và thỏa mãn tất cả chúng sinh sáu cõi. Chúng được nhân lên và chuyển hóa nhờ phương tiện diệu kỳ của Bồ Tát Phổ Hiền[4] và nhờ tụng Chân ngôn Hư Không Tạng[5]. Nguyện chư Phật chiến thắng và Bồ Tát kế thừa gia trì những chất này bằng ngữ chân thậtsức mạnh không thể nghĩ bàn của định, chuyển hóa chúng thành những đám mây cúng phẩm quý báu không vơi cạn!

Hãy gia trì các cúng phẩm bằng Chân ngôn Hư Không Tạng:

Nama Sarwa Tatagaté Bayo Bisho Mukhebé Sarwa Takham Utgaté Saparana Imam Gagana Kham Soha

+) Lời Thỉnh Mời Ngắn Cho Bốn Kiểu Khách Mời[6]

Namo

Chư Phật chiến thắng, với lòng bi mẫn không vơi cạn,

Nhờ sức mạnh diệu kỳ, giờ hãy đến chốn thiêng này!

Chư Bồ Tát thù thắng, chỉ nghĩ đến giúp kẻ khác,

Nhờ sức mạnh tâm từ, giờ hãy đến chốn thiêng này!

Nhờ sức mạnhchân lý của chư Phật và Bồ Tát,

Chủ nợ nghiệp, khách mời vì bi mẫn, giờ cũng đến!

Vajra Samaya Dza!

+) Chư Phật

Om Ah Hung

Hỡi chư Tôn, những hóa hiện của ba thân Phật, sinh ra từ lòng bi mẫn lớn lao và hoàn thành mọi lời nguyện hoàn toàn thanh tịnh[7]. Chư vị giữ mọi hữu tình chúng sinh trong lòng bi mẫn suốt ngày và đêm – mối bận tâm duy nhất của chư vị là sự an lành của họ. Chư vị hiển bày thành chư Tôn an bình, chư Tôn phẫn nộ, Tramen[8]tương tự; thành âm thanh của giáo lý sâu sắc và bao la; và thành sự hiển bày không thể nghĩ bàn của tâm giác ngộ toàn tri của chư vị. Bởi chư vị hiển bày theo tất cả những cách này, tầm nhìn của chư vị không ngăn ngại và các hoạt động thiện xảo của chư vị không thể nghĩ bàn. Xin hãy hoan hỷ với cúng dường Sur trí tuệ này, phương thuốc cho các ma vương và hãy tận hưởng. Xin hãy gia trì chúng con nhờ sức mạnh của hai tích lũy.

+) Chư Bồ Tát

Om Ah Hung

Chư Bồ Tát vĩ đại, những vị kế thừa của chư Chiến Thắng, đấng bảo hộ của chúng sinh, mặc dù chư vị thích thú trong vô lượng cõi Phật mà chư vị hiển bày và tận hưởng vô lượng trí tuệ và sự sáng suốt, xin hãy chấp nhận cúng dường Sur này, cam lồ trí tuệ, vì hạnh phúc của bản thân con và sự an lành của mọi hữu tình chúng sinh. Nhờ tính chân thật của các phẩm tính của chư Bồ Tát, chẳng gì sánh bằng trong khắp luân hồiNiết Bàntrí Văn Thù, dũng Kim Cương Thủ, bi Quán Thế Âm, hành động Phổ Hiền, giải thoát Đấng Bảo Hộ Di Lặc – và Bồ đề tâm hoàn hảotuyệt vời, điều mà tất cả những vị kế thừa của chư Chiến Thắng đã phát khởi, cùng với tính chân thật của những lời này, nguyện các cúng phẩm tốt lành và lộng lẫy mà con đã chuẩn bị này được gia trì để chúng bao trùm khắp tam giới và có sức mạnh thỏa mãn mỗi một chúng sinh của cả sáu cõi[9].

+) Chư Thanh Văn & Duyên Giác Phật

Om Ah Hung

Chư Thanh VănDuyên Giác Phật, chư A La Hán

Chư vị đã đạt được điều chư vị bắt đầu làm,

Bỏ gánh nặng ngũ uẩn, không còn sinh trong luân hồi,

Chư vị đã từ bỏ việc thu thập và tích trữ,

Chư vị chứng trí nguyên sơ vượt khỏi sự tồn tại,

Con dâng cúng Sur, cam lồ trí mà con chuẩn bị

Với động cơ thanh tịnh; để đáp lại, chư vị sẽ

Chăm sóc mọi chúng sinh vốn đã từng là mẹ con.

+) Chư Tôn Kim Cương Thừa & Trì Minh

Om Ah Hung

Chư Tôn nam và nữ tại trung tâm của các đàn tràng chẳng thể nghĩ bàn của Mật Chú, Minh Chú và Đà-ra-ni Chú, đoàn tùy tùng, những hóa hiệnsứ giả – tất cả chư vị, vô số chư Tôn, con thỉnh mời đến đây, cũng như chư Tôn duy trì là chư Trì Minh được chăm sóc bởi chư Tôn, và chư Trì Minh bay trên bầu trời trong huyễn thân trí tuệ, một số có hình tướng và một số không. Nhờ sức mạnh của những năng lực diệu kỳ cùng với lòng bi mẫn vĩ đại của chư vị, xin hãy tận hưởng cúng dường Sur này, tinh túycam lồ, như một tiệc Tsok. Xin hãy tịnh hóa mọi phá vỡ thệ nguyện (Samaya) của con và khiến cho sức mạnh của Chân ngôn và định bung nở trong con không chút chướng ngại.

+) Những Chúng Sinh Oai Hùng Của Thế Gian

Om Ah Hung

Con thỉnh mời những chúng sinh oai hùng và vĩ đại của thế gian này, những vị thiên, Naga, thần bản địa, La Sáttương tự mạnh mẽ nhất, những vị thống lĩnh cai quản con người và các tài nguyên, cũng như những vị khát khao trở thành thủ lĩnh. Con dâng Sur này, cam lồ trí tuệ, đến tất cả chư vị, cũng như đến tất cả tinh linh đại thô lậu và vi tế[10], những vị đồng hành cùng chư vị. Các cúng phẩm này đã được gia trì bởi ngữ chân thật mà những Đấng Chiến Thắng và chư vị kế thừa tuyên thuyết để chúng trở thành tiệc của mọi thứ mà chư vị có thể mong mỏiham muốn – xin hãy chấp nhận chúng. Hiện thân lòng bi của những Đấng Chiến Thắng này, thứ ban cho chư thiên và mọi chúng sinh phần Bồ đề tâm của họ là kho tàng viên thành mọi ham muốn – nguyện cúng dường này làm hài lòngthỏa mãn chư vị.

+) Những Chúng Sinh Của Sáu Cõi

Om Ah Hung

Con thỉnh mời tất cả chúng sinh của sáu cõi, những vị lang thang trong vòng tồn tại, những vị tin các hiện tượng là thật và bám chấp vào ngã, những vị bị giày vò bởi nhận thức về ‘tôi’ và ‘của tôi’ và tái sinh bất tận trong luân hồi. Họ tham luyến với bản thân và không thích kẻ khác. Một cách sai lầm, họ nhìn nhận theo lối nhị nguyên và bám chấp vào các hình tướng thô lậu. Dù vậy, bị thân vật lý trói buộc, họ không thể lập tức tập hợp về đây, dẫu cho đồ ăn vi tế mà chúng con cúng dường có lẽ chẳng thể thỏa mãn họ, nhờ sức mạnh của lòng bi mẫn lớn lao của con, con quán tưởng rằng tất cả hữu tình chúng sinh của tam giới thực sự ở đây, phía trước con. Nhờ cúng dường Sur này, phương thuốc cho các ma vương, nguyện con hoàn thiện bố thí ba la mật và nguyện mọi hữu tình chúng sinh, những vị đã từng là mẹ con, đều được giải thoát khỏi khổ đau mà nhận thức nghiệp của họ gây ra và nguyện họ ngập tràn niềm hoan hỷ lớn lao.

+) Người Ăn Xin

Om Ah Hung

Con thỉnh mời những vị đáng được bố thí nhất và những vị trao cho chư Bồ Tát cơ hội tích lũy kho công đức bao la – những vị nghèo túng trên thế gian, kẻ ăn xin, người đi từ nhà này qua nhà khác, đặt hy vọng của họ vào người khác, người sống cuộc đời của kẻ lang thang, tồn tại nhờ đồ bố thí. Tất cả những người trong tình cảnh thấp kém như vậy là đối tượng cho sự hào phóng của con và con giữ họ với lòng bi mẫn – nguyện cúng dường Sur này, với bản tínhcam lồ, đến được tất cả họ. Nguyện những vị đói khát đều được no nê, những vị lạnh có được y phục, nguyện cúng dường Sur này trở thành cội nguồn đáp ứng cho tất cả từng vị.

Nguyện họ thọ nhận gia trì của chư Bồ Tát và nguyện con chẳng bao giờ phạm sa sút gốc của việc không cho đi đồ ăn hay tài sản của bản thân bởi keo kiệt[11].

+) Người Vô Gia Cư

Om Ah Hung

Con thỉnh mời những người vô gia cư, vị sống ở ranh giới của người sống và người chết, dùng đồ ăn thừa và uống cặn, người hưởng quả đạm bạc từ sự bố thí quá khứ của họ và chỉ có khả năng cho đi thật hạn chế, vẻ rạng ngời[12] của họ yếu ớt và họ mặc y phục xám xịt, phai màu. Nguyện những hữu tình chúng sinh nghèo khótúng quẫn này tận hưởng cúng dường Sur, phương thuốc trí tuệ cho các ma vương. Nguyện nó đáp ứng nhu cầu của họ và thỏa mãn họ. Nguyện nó tự nhiên xoa dịu sự giày vò bởi đói, khát và hoàn cảnh thấp kém của họ. Nguyện sức mạnh và vị thế của họ phát triển để họ trở nên ngang bằng trong nhóm của họ. Nguyện họ sau đó thực hành Giáo Pháp cao quý.

+) Tu Sĩ Sa Ngã

Om Ah Hung

Thời kỳ suy đồi này đã khiến một số người đạo đức phóng đãng thọ y của một vị Tăng hay Ni, được thúc đẩy hoàn toàn bởi mong ước cải thiện số phận hay tìm kiếm sự an ổn. Họ mặc y bên ngoài của một tu sĩ – đống giẻ rách màu nâu sậm và vàng của họ. Họ chiếm đoạt vì phương tiện sinh sống của bản thân các cúng phẩm quý giá được dâng lên Tăng đoànniềm tin. Màu sắc y áo của họ là xanh sẫm và vàng phai. Họ hiếm khi hài lòng với thứ họ có để ăn và thèm khát đồ ăn của người khác. Họ ăn Torma được dâng cúng lên chư Tôn, cầu xin đồ ăn từ bất kỳ ai họ gặp, chộp lấy đồ ăn được phân phát cho Tăng đoàn, thọ đồ ăn được dâng cúng vì lòng sùng mộ, bới đồ thừa, dang tay khi ở trong phòng ăn, đưa cốc ra khi đồ uống đang được chuẩn bị và thèm nhỏ dãi khi thấy thịt. Một bữa tiệc đồ ăn linh đình cũng chẳng thỏa mãn họ; họ sẵn sàng bỏ tiền ra cho thứ trông giống thịt, thậm chí dù nó có thể không phải, và họ mang theo thịt và bơ.

Họ chẳng mấy yêu thích những đại diện của thân, khẩu và ý giác ngộ và sẵn sàng quên chúng. Họ bới quanh các xác chết thối rữa như kền kền và mua những món bị hỏng như thể chúng được làm từ vàng hay bạc. Họ xin trà vào mùa hè, bơ vào mùa thu và lúa mì vào mùa đông. Họ đến khi chẳng được mời, họ thèm khát những thứ mà họ chẳng cần, họ tức giận khi bị từ chối điều mà họ muốn và họ lấy trộm khi người ta quay đi. Trao cho họ một và họ sẽ xin hai – càng cho, họ càng xin thêm.

Con cúng dường Sur này của cam lồ trí tuệ đến tất cả những người như vậy, những vị liên tục mong chờ thứ gì đó từ người khác – những vị trong quá khứ, những vị mới qua đời, những vị vẫn còn sống và những vị trong tương lai. Nguyện họ được thỏa mãnhài lòng. Nguyện họ chẳng bao giờ trải qua bất kỳ đói hay khát nào. Nguyện chỉ một miếng thức ăn nhỏ xíu cũng nuôi dưỡng họ hoàn toàn. Nguyện họ chẳng bao giờ thèm muốn thứ mà người khác chất chồng trên đĩa của họ. Nguyện họ có được nước da sáng và mạnh khỏe, no bụng và tự nhiên hoan hỷ. Nguyện họ luôn luôn thực hành Giáo Phápnỗ lực để tịnh hóa các che chướng và nguyện họ trở thành những đối tượng xứng đáng của niềm tincảm hứng.

+) Người Ăn Xin[13]

Om Ah Hung

Con thỉnh mời những vị sống nhờ ăn xin, lùng sục trên mặt đất để nhặt nhạnh giẻ rách, lảng vảng gần cửa nhà của mọi người. Mặt họ màu xám như tro. Họ chẳng nói, họ gào lên. Họ gọi những người họ biết và khom lưng trước những người họ không biết. Vào mùa hè, họ mong mỏi có được bia, xin những chiếc ly không và nước để rửa qua chúng. Vào mùa thu, họ mong mỏi ngũ cốc, lục lọi kiếm vỏ trấu và cỏ khô. Vào mùa xuân, họ mơ tưởng đến bơ, cãi cọ về cặn từ việc vắt sữa và đánh nhau với bê mới sinh. Vào mùa đông, họ thèm thịt và xin xương mòn và nước xuýt bẩn. Thỉnh thoảng, họ đi ăn xin. Họ rời đi sớm vào buổi sáng và trở về muộn vào buổi đêm, hoặc nếu không là hôm sau. Nói rằng, “Họ không đến hôm nay” là nói nhảm – họ luôn đến! Họ xuất hiện để ăn như thể họ đã phát lời thề linh thiêng; họ cất lên điệp khúc như kiểu kinh cầu nguyện không lời. Khi bị đánh, họ chẳng phản ứng lại. Họ luôn nói ngọt, nhưng bên trong, họ độc ác. Họ chẳng bao giờ hài lòng với thứ họ nhận được và nổi cáu khi người ta không cho họ thứ gì. Họ luôn mong chờ thứ gì đó từ người khác.

Con dâng cúng dường cam lồ trí tuệ, Sur này, đến tất cả những người ăn xin trên thế giới này – nam và nữ, người tàn tật, người mù và người điếc. Nguyện họ hoàn toàn thỏa mãn, nguyện nó xoa dịu cơn đói của họ, khiến họ hết khát, phục hồi thị lực của người mù, thính giác của người điếc, các chi của người tàn tật. Nguyện họ tận hưởng hạnh phúcan lành hoàn hảo và luôn luôn thực hành Giáo Pháp.

+) Chúng Sinh Bardo

Om Ah Hung

Con thỉnh mời những vị mà, bởi họ không có bất kỳ thứ gì để ăn khi còn sống, liên tục nghĩ về việc lấy đồ ăn từ người nghèo hay từ đồ cúng dường lên Tăng đoàn. Họ đã chết vì đói hay vì lạnh mà chưa nghe được một từ về Giáo Pháp. Thậm chí nếu họ đã nghe Giáo Pháp, họ chẳng có niềm tin bởi họ dành quá nhiều thời gian bên các Lama và tu sĩ và trở nên quá quen với chư vị. Bởi họ không thể được lợi lạc từ Giáo Pháp, họ kết thúc trong Bardo trở thành hay trong một trong hai cõi ngạ quỷ[14].

Họ trải qua mọi kiểu ảo ảnh, chẳng hạn ngày và đêm đảo ngược và ba kiểu khổ đau, lạnh, đói và khát. Họ luôn luôn lảng vảng gần nhà – cửa của mọi người; họ có thể thấy đồ ăn, thức uống và tiền bạc nhưng không thể nhận chúng. Họ bị giày vò bởi sợ hãi và thù hận. Khi cái chết xảy đến với họ, họ nhìn về phía những người vẫn đang sống, cánh tay duỗi ra, tham luyến vẫn thật mạnh mẽ. Họ tiếp tục tụ tập trong chùa chiền khi có tiếng ốc để thực hành, hy vọng tìm được thức ăn và đồ uống. Nhưng thậm chí nếu họ chờ kế bên chỗ mà các cúng phẩm được bày biện, họ chẳng bao giờ nhận được gì – không ai thấy khuôn mặt cầu xin hay cánh tay đang duỗi ra của họ. Bởi họ bị thờ ơ, tâm họ ngập tràn sân hận. Khắp nơi đều tăm tối với họ, như thể lúc chạng vạng, và thân họ chỉ là cái bóng. Mưa, tuyết và bão tuyết giày vò họ. Với họ, những cánh đồng xanh tươi thì màu đen, mùa màng khô héo, vàng đầy gỉ, những khuôn mặt ghê tởm và từ ngữ thì gây tổn thương. Họ mong mỏi đồ ăn và bị giày vò bởi cơn khát. Họ bới tìm cặn trà đã dùng, ăn nước nhầy và nước dãi.

Vì tất cả những chúng sinh như vậy, những vị khát khao cúng dường Sur và Torma, con dâng cam lồ trí tuệ này, thứ giống như kho tàng lớn, xuất hiện dưới dạng bất cứ thứ gì mà mỗi vị thèm muốncần thiết. Thỏa mãn và no nê, nguyện họ thoát khỏi mọi ham muốn về đồ ăn và thức uống. Nguyện họ nhớ về chư Tônđạo sư của họ mà không có chút mong chờ hay tham luyến, và nguyện niềm tin cùng những lời cầu nguyện chân thành của họ nhanh chóng dẫn dắt họ đến các cõi Tịnh độ.

Cho đến khi đó, quý vị duy trì giữa vô số chúng sinh, những vị đã bước vào Bardo, trong khi ở đây, trong số những vị đang sống, số lượng thật ít ỏi. Này những vị đã khuất, đừng làm hại vị còn sống. Đừng hy vọng quá nhiều từ họ. Hãy tránh ham muốntham luyến. Đừng trộm cắp tinh túy trọng yếu của đồ ăn bổ dưỡng. Đừng làm hại sức khỏe của gia súc chưa sinh. Đừng gây thù hận và bất ổn trong gia đình. Nguyện cúng dường Sur này, bản tínhcam lồ, hoàn toàn thỏa mãn quý vị. Và nhờ nó, nguyện quý vị thọ nhận gia trì của tất cả chư Phật và Bồ Tátphát tâm giác ngộ quý báu.

+) Bổ Sung: Cúng Dường Sur Dành Riêng Cho Những Khách Mời Của Lòng Bi[15]

Om Ah Hung

Khổ đau của thời kỳ suy đồi này cũng tác động đến những vị tuân theo giới luật của chư Tăng và Ni đắp y. Được thúc đẩy bởi mong ước cải thiện số phận hay tránh khó khăn, họ đắp y vàng nghệ mẫu mực và nuôi dưỡng bản thân nhờ những cúng dường được dâng lên Tăng đoàn. Đồ ăn hiếm khi thỏa mãn họ – họ thèm khát thứ mà người khác có để ăn, kiểm soát số lượng đồ ăn được trao cho cộng đồng và nhận đồ cúng được trao vì lòng sùng mộ. Họ xin bơ vào mùa hè và lúa mạch vào mùa thu. Họ xô vào mọi người, khẩn khoản chẳng cần thiết và trở nên cáu tiết khi không nhận được thứ họ muốn. Nếu con trao cho họ đủ đồ cúng dường để sống trong một năm, họ sẽ chẳng xấu hổquay trở lại và xin thêm nữa. Họ luôn luôn trông chờ vào việc được hỗ trợ bởi người khác.

Con dâng cúng dường Sur của cam lồ trí tuệ này đến những người như vậy – những vị đã qua đời, những vị vẫn còn sống và những vị trong tương lai. Nguyện nó thỏa mãnđáp ứng họ. Nguyện họ chẳng bao giờ cảm thấy đói. Nguyện họ được nuôi dưỡng nhờ thậm chí chỉ một mẩu đồ ăn nhỏ và nguyện họ chẳng bao giờ thèm muốn đồ ăn được chất chồng trên đĩa của người khác. Nguyện họ có nước da sáng và khỏe mạnh, no bụng và tự nhiên hoan hỷ. Nguyện họ luôn luôn thực hành Giáo Phápnỗ lực để tịnh hóa che chướng và nguyện họ trở thành những đối tượng của niềm tincảm hứng.

+) Chư Thần Bản ĐịaTinh Linh Trong Vùng Của Patrul Rinpoche

Tất cả quý vị, chư thần bản địa, Nyenchen Topatsal[16] và những vị còn lại, kẻ tấn công lẫn nhau trong chiến tranh và vụ cướp, kẻ xúi giục mọi người giành chiến thắng cho phe của họ và đánh bại những kẻ thù – hãy sử dụng khả năng diệu kỳ của quý vị để đến đây, ngay bây giờ, không trì hoãn. Tôi, một Yogi, vừa gia trì cúng dường Sur này bằng Chân ngôn, thủ ấn và định – về tinh túy, nó là cam lồ, phương thuốc cho ma vương; bên ngoài, nó mang hình tướng của bất kỳ thứ gì làm hài lòng các giác quan, giống như ngọc báu như ý hay cây như ý nguyện. Hãy chấp nhận các đối tượng hài lòng không vơi cạn này, thứ sẽ tồn tại trong một kiếp và sẽ khiến mọi người tử tế và vị tha. Hãy khiến dân chúng ở mọi quốc gia trên thế giới này, mà đặc biệt là các vùng của sông Machu, Dzachu và Marchu, thoát khỏi mọi thành kiến hay thiên vị với họ hàng hay người ngoài. Thay vào đó, nguyện họ tử tế với nhau, nhân từyêu thương, và sống hòa thuận với nhau. Nguyện họ lập tức chấm dứt mọi hành vi gây hại, chẳng hạn cãi cọ, đánh nhau và tranh cãi. Nói ngắn gọn, hãy làm mọi điều có thể để truyền cho tất cả, dù là người hay không, một sự thiết tha không thể kìm nén về việc hành xử đúng theo Giáo Pháp. Đừng chống lại những lời và mệnh lệnh của chư thành tựu giả trong quá khứ, chẳng hạn đạo sư kim cương vinh quang của Oddiyana, Đức Liên Hoa Sinh [Padmakara] vĩ đại, và hãy hỗ trợ sự hoàn thành mọi dự án được bắt đầu bởi Pema Chopel, vị quản lýđại diện trước kia, người đã tuân theo những chỉ dẫn của vua Derge, vị cai quản đất nước bao la này, người bảo vệ Giáo Pháp. Nguyện mọi chuyện được hoàn thành không chướng ngại, đúng như ông ấy trù tính.

Tôi đặc biệt triệu thỉnh tín đồ già Sonam Tenpa, tín đồ Ngawang, Se Palchen Gonpo, Wangchen Kartse và v.v. – tất cả những vị mang hình tướng phi nhânma quỷ đại bởi họ tin rằng các ý nghĩ của họ, được nhen nhóm bởi tham và sân, là thật và rằng các hình tướng như mơ thực sự tồn tại – những vị đang cố hết sức để phiền nhiễu hòa bình và hạnh phúc của vương quốc theo mọi cách. Hãy sử dụng khả năng diệu kỳ để du hành, điều mà quý vị đã phát triển như là kết quả của nghiệp[17], đến đây, ngay bây giờ, và tận hưởng cúng dường Sur này, phương thuốc cho các ma vương. Hãy tử tế với mọi chúng sinh, tập trung tâm hoàn toàn vào mong muốn đến một Tịnh độ, chẳng hạn Cực Lạc hay Liên Hoa Quang, và cầu nguyện rằng quý vị sẽ cạn kiệt ác nghiệptrở thành đệ tử xứng đáng được chư Phật và Bồ Tát rèn luyện.

Tôi triệu thỉnh tất cả những vị khác, kẻ phạm phải ác hạnh, chẳng hạn những vị thích hiến tế động vật và những vị giết hại trong chiến tranh và xung đột, bởi họ sẽ liên tục đau khổsợ hãilo âu trong suốt cuộc đời và sẽ chịu đựng nóng và lạnh chẳng thể chịu đựng trong các cõi địa ngục sau khi chết. Vì thế, đừng bao giờ vi phạm điều mà chúng tôi, chư Bồ Tát, những vị kế thừa của Đấng Chiến Thắng, bảo làm.

Cúng dường đồ ăn tràn khắp tam giới, nơi chính là cõi Phật thanh tịnh.

Nó chạm đến khách mời lòng bi – mọi chúng sinh trong ba chốn tồn tại.

Nhờ sức mạnh của Pháp tính sâu xa, nguyện quý vị đều tận hưởng

Kho tàng không vơi cạn này của tất cả mong muốn và nhu cầu!

Om Mani Padme Hung Hrih

+) Sur Đỏ

Một thực hành Sur đỏ để chấm dứt bệnh dịch gia súc. Lúc bắt đầu cúng dường Sur đến bốn kiểu khách mời, hãy tụng

Nama Sarwa Tathagata Avalokita | Om Sambhara Sambhara Hung[18]

Cũng tụng danh hiệu của bốn vị Như Lai:

Như Lai Đa Bảo, Diệu Sắc Thân, Quảng Bác ThânLy Bố Úy[19].

Mỗi kiểu tinh linh Gyadre và Gongpo[20] tồn tại, dù quan trọng hay không, và đặc biệt là tất cả quý vị, những tinh linh đại, ngạ quỷ và Pishachi[21], những vị lấy trộm mạng sống, tước đoạt vẻ rạng ngời của chúng sinh, bóp nghẹt chúng sinh, cai quản các bệnh tật của con người, hành xử vì sân hậnác tâm, gây bệnh tật ở gia súc đen[22] và v.v. cũng như tất cả các tinh linh ác độc khác – giờ hãy đến và chấp nhận những cúng phẩm thú vịdồi dào này. Chúng là vật phẩm không vơi cạn của bất cứ điều gì mà quý vị mong mỏi hay thèm muốn – đồ ăn và thức uống, nơi ở, núi thịt, biển máu, ụ xương, da với thịt và tóc, mưa tủy, não và mỡ và v.v.

Mọi thứ quý vị có thể mong muốn đều ở đây và sẽ chẳng bao giờ suy giảm bất kể quý vị ăn bao nhiêu, uống bao nhiêu hay bôi lên thân thể bao nhiêu. Các cúng phẩm cao hơn núi, sâu hơn biển và dài hơn sông. Chúng là những loại thuốc tốt nhất có thể chữa lành mọi bệnh tật, cam lồ có thể hồi sinh người chết, diệu dược tuyệt hảo có thể tiêu trừ khổ đau. Với tất cả những điều này được tập trung rõ ràng trong tâm tôi, tôi dâng chúng cho quý vị, tôi trao chúng cho quý vị, tôi hiến dâng chúng cho quý vị. Nguyện chúng thỏa mãn mọi ham muốn của quý vị. Nguyện tâm quý vị tràn ngập tình yêu thương, lòng bi mẫnnhận thức sâu sắc về sự quan tâm dành cho mọi chúng sinh. Nguyện quý vị ngừng làm hại con người và con vật và nguyện mọi chúng sinh thoát khỏi nỗi sợ mất mạng.

Hãy lặp lại phần này nhiều lần.

Lúc kết thúc, hãy tụng

Namo!

Nhờ sức mạnh những lời nguyện của con,

Sức mạnh bố thí của chư Như Lai,

Sức mạnh của Pháp giới,

Con dâng các cúng dường này lên chư vị tôn quý.

Nguyện bất cứ ý định tích cực nào

Để làm lợi mỗi hữu tình chúng sinh,

Bất kỳ kiểu thiện hạnh nào,

Bất kể nơi đâu trong vũ trụ,

Đều viên thành không trở ngại!

Thực hành bố thí của việc trao các cúng dường vật chất hoàn mãn như vậy.

Vạn pháp đến từ các nhân.

Như Lai dạy các nhân này

Và cả điều chấm dứt các nhân này –

Đây là điều mà Đại Khất Sĩ[23] đã dạy.

Giống như vì sao, ảo giác, ngọn đèn,

Ảo ảnh diệu kỳ, giọt sương, bong bóng,

Giấc mơ, tia chớp hay đám mây

Hãy hiểu rằng vạn pháp hữu vi đều giống vậy.

Hai đoạn kệ này đại diện cho sự bố thí của việc trao Giáo Pháp. Hãy hồi hướng và khởi lòng từ và bi.

Patrul soạn. Thiện lành!

 

Nguồn Anh ngữ: http://all-otr.org/vajrayana/62-rain-of-amrita-an-offering-of-sur.

Gyurme Avertin chuyển dịch Tạng-Anh; Philip Philippou hiệu đính.

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.



[1] Từ Sur trong Tạng ngữ nghĩa là ‘đồ cúng được đốt’. Nó là một kiểu cúng dường đặc biệt, chủ yếu hướng đến các tinh linh hay chúng sinh Bardo, những vị chỉ có thể thọ đồ ăn thức uống nhờ ngửi. Lama Zopa từng miêu tả Sur là “Bố Thí Mùi Hương Cho Các Tinh Linh”. Bởi không có từ tương ứng cho Sur trong Anh ngữ, chúng tôi giữ nguyên thuật ngữ gốc trong Tạng ngữ trong bản dịch này.

[2] Về Patrul Rinpoche, tham khảo https://thuvienhoasen.org/a26125/tieu-su-van-tat-dai-su-dza-patrul-rinpoche-1808-1887-.

[3] Amrita trong Phạn ngữ, Dutsi trong Tạng ngữ có hai ý nghĩa: (1) theo gốc Phạn ngữ, A nghĩa là ‘không’ và Mrit nghĩa là ‘chết’, vì thế, về nghĩa đen ‘không chết’ hay ‘cam lồ bất tử’; và (2) như được phản ánh trong Tạng ngữ, Tsi nghĩa là ‘phương thuốc’ và Du ‘ma vương’, vì thế, ‘phương thuốc cho ma vương’. Như trong mọi thực hành nghi quỹ, các cúng dường (trong trường hợp này là mùi đồ ăn bị đốt) được chuyển hóa thành cam lồ trí tuệ. Cam lồ này không phải là một chất lỏng mà thay vào đó là tinh túy trí tuệ của Bồ đề tâm. Ma vương liên quan đến các ảnh hưởng tiêu cực, chẳng hạn bệnh tật, thứ làm hại hữu tình chúng sinh, hay ‘bốn ma vương’ giữ chúng sinh trong luân hồi. Bản tính trọng yếu của cúng dường Sur chính là Bồ đề tâm, phương thuốc duy nhất cho bốn ma vương và nguyên nhân rốt ráo cho sự giác ngộ của mọi chúng sinh.

[4] Bồ Tát Phổ Hiền nổi tiếng về những cúng dường vô lượng mà Ngài đã dâng nhờ nhân thân thể lên vô số lần, mỗi thân đều dâng các cúng dường, thứ tràn khắp hư không.

[5] Chân ngôn xuất hiện bên dưới. Khi bạn tụng Chân ngôn và bắt ấn tương ứng, một đám mây không thể vơi cạn những diệu dục khởi lên từ Không, tràn ngập toàn bộ vũ trụduy trì chừng nào hư không còn.

[6] Tiêu đề này và các tiêu đề tiếp theo không xuất hiện trong bản văn của Patrul Rinpoche nhưng đã được thêm vào để sáng tỏ. Về bốn kiểu khách mời, tham khảo giải thích của Orgyen Tobgyal Rinpoche tại https://thuvienhoasen.org/p38a36147/cung-duong-sur-nhung-nguyen-tac-can-ban.

[7] Chư Phật đã hoàn thiện tất cả mười ba la mật của con đường đến giác ngộ. Ba la mật thứ tám là nguyện, thứ kết nối với trí tuệ. Khi đạt đến bát địa, chư Bồ Tát hoàn thiện vô số lời nguyện mà chư vị đã phát trong lúc còn trên con đường đến giác ngộ, bởi chư vị không còn bám chấp vào các hiện tượng là thực sự tồn tại.

[8] Tramen là bộ chúng sinh có thân người nhưng đầu động vật. Họ được xem là rất nguy hiểm bởi họ ăn thịt của con người. Tramen đôi khi xuất hiện là những vị bảo vệ trong đoàn tùy tùng của một vị Tôn, khi mà họ canh giữ rìa bên ngoài của đàn tràng.

[9] Sáu cõi gồm địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, con người, bán thiên và chư thiên.

[10] Jungpo, tinh linh đại, là những tinh linh ác độc thuộc về cõi ngạ quỷ. Họ không phải luôn luôn ác độc và không phải là tinh linh gây hại mạnh mẽ nhất. Họ được gọi là ‘đại’ bởi bộ tinh linh này bao gồm các vị thần lửa, đất, gió và v.v.

[11] Một trong những sa sút chính yếu của Bồ Tát giới. Khenpo Kunpel giải thích rằng “Những vị thượng căn tránh mười tám sa sút chính yếu như được giải thích trong Kinh Hư Không Tạng. Chư Bồ Tát trung căn phải giữ bản thân khỏi bốn sa sút chính yếu chẳng hạn từ chối quyên của cải hay bố thí Pháp bởi thiếu hào phóng, như được giải thích trong Kinh Grihapati-ugraparipriccha. Với những vị Bồ Tát hạ căn, giữ gìn và không từ bỏ Bồ đề tâm nguyện là đủ.

[12] Thuật ngữ mdangs nhắc đến sinh lực hay vẻ rạng ngời của con ngườiđộng vật, nói cách khác, điều khiến họ có ảnh hưởng nhất định, cảm giác mà họ khơi dậy.

[13] Patrul Rinpoche vốn đã nhắc đến người ăn xin trước đó trong bản văn này, tuy nhiên, Ngài lại dành phần khác cho họ ở đây, đi sâu vào chi tiết.

[14] Có hai kiểu ngạ quỷ: những vị sống tập trung lại và những vị di chuyển qua hư không.

[15] Phần này được đánh dấu như là một phần bổ sung bởi Patrul Rinpoche (hoặc người biên tập), sử dụng những dấu chấm câu đặc biệt. Nó bắt đầu bằng tựa đề khá khó hiểu “Cúng Dường Sur”. Ấn bản 2009 của Tuyển Tập Trước Tác Của Patrul Rinpoche được in ở Tứ Xuyên thậm chí còn bắt đầu một chương mới tại chỗ này, với tựa đề “Phần Riêng từ Cơn Mưa Cam Lồ để đặc biệt dâng cúng dường Sur cho những khách mời bi mẫn”. Đó rõ ràng không phải một phần mới, nhưng tựa đề này đem đến ý tưởng về mục đích của nó. Đó là một phiên bản tóm lược của cúng dường cho những tu sĩ sa ngã.

[16] Tên gọi của tinh linh Nyen lớn, cai quản Golok. Ông ấy là một sơn thần (hay Nyen), vị mang hình tướng mạnh mẽ, màu đen và phẫn nộ. Ông ấy cũng được cho là một Bồ Tát vĩ đại ở địa thứ mười. Một đoàn tùy tùy vô lượng luôn đồng hành cùng ông ấy.

[17] Điều đấy không phải là họ có được sức mạnh diệu kỳ nhờ công đức, mà đơn giản là, bởi tái sinh thành ma quỷ đại do ác nghiệp, họ giờ đây có khả năng này.

[18] Sự kết hợp của Chân ngôn này và thủ ấn kèm theo chuyển hóa các cúng dường thành đại dương những đối tượng ham muốn.

[19] Tức Jina Ratna-bahulya, Jina Sarūpottama, Jina Rūpa-paryānta, Jina Sarkāya-vimuktasena. Phật Thích Ca Mâu Ni nói rằng sự gia trì, nguyện và lòng bi của bốn vị Phật này có kết nối đặc biệt với thực hành cúng dường. Chúng ta tụng danh hiệu của chư vị, điều giống như cầu nguyện đến chư vị, để chư vị ban gia trì.

[20] Gongpo là những tinh linh xúi giục sự giận dữ, kiêu ngạo, đố kỵbất hòa trong tâm mọi người.

Gyadre là một kiểu Gongpo kích động đánh nhauxung đột.

[21] Pishachi là bộ các chúng sinh bán-thiên, theo truyền thống liên quan đến những nơi hoang dã, xa xôi của trái đất. Họ được xem là đặc biệt hung dữ và được biết đến là ăn thịt.

[22] Một tên gọi chung ở Tây Tạng để chỉ những con vật nuôi – Yak, Dri (Yak cái) và Dzo (con lai giữa Yak và bò, hay bò đực và Dri), tất cả đều màu đen.

[23] Tức Đức Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 182)
Ta sinh ra tại thung lũng thượng Dra ở Yoru, là con trai của Lobpon Tenpa Sung và Droza Sonam Gyen. Từ thuở nhỏ,
(Xem: 184)
Kính lễ đạo sư vinh quang, vị Thánh Tôn, Đấng viên thành mong ước thù thắng –
(Xem: 309)
Trong chuyến viếng thăm ngắn đến Hà Lan, Rinpoche được mời đến giảng dạy một tối về truyền thống Kim Cương thừa
(Xem: 651)
(1) Kính lễ bậc Chúa Tể (dòng họ) Thích Ca. Thân Ngài đản sanh từ vô lượng công đức, tướng hảo thù thắng. Lời Ngài làm thỏa mãn hy vọng của vô lượng chúng sanh.
(Xem: 660)
Trước khi chuyển di thần thức của người đã khuất, hãy bắt đầu bằng cách gọi tên họ số lần thích hợp.
(Xem: 775)
Nhìn chung, điều được gọi là Tâm Yếu Bốn Phần chủ yếu bao gồm những giáo lý của Tôn giả Vimalamitra [Vô Cấu Hữu],
(Xem: 751)
Khai thị của Kyabje Lama Zopa Rinpoche về tánh Không (shunyata) trong lễ quy y tại Trung Tâm Phật Giáo A Di Đà
(Xem: 1054)
Hãy đảm bảo rằng, trước khi tôi bắt đầu, các bạn phát khởi động cơ Bồ đề tâm thù thắng, tâm giác ngộ quý báu.
(Xem: 1276)
Tobgyal Rinpoche[1] được thỉnh cầu nói về các Bardo (những trạng thái chuyển tiếp), một nét đặc trưng độc đáo của giáo lý Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 1090)
Hãy phát khởi động lựchành vi đúng đắn, nghĩ rằng tôi phải tạo lợi lạc cho tất cả chúng sanh bao la như không gian,
(Xem: 2373)
Tôn giả Longchen Rabjam (1308-1363) sinh ra ở Yoru thuộc phần phía Đông của miền Trung Tây Tạng, gần Tu viện Samye vĩ đại mà Đạo Sư Liên Hoa Sinh xây dựng vào thế kỷ tám.
(Xem: 1765)
Có nhiều vị Tôn trên thế gian này và Phổ Ba Kim Cương là một trong số đó. Thực hành về Ngài được biết đến là “thực hành Phổ Ba Kim Cương để ...
(Xem: 3469)
Từ năm lên ba, Lama Drimed Rinpoche đã bày tỏ niềm tin và sự yêu thích đáng kinh ngạc với Phật Pháp.
(Xem: 1585)
Đức Shechen Rabjam thứ nhất – Tenpe Gyaltsen sinh năm 1650, năm Kim Dần của chu kỳ sáu mươi năm thứ mười một.
(Xem: 2530)
Geshe Ngawang Dhargyey (1921-1995) sinh ra ở vùng Trehor thuộc Kham, phía đông của Tây Tạng và học ở Tu viện Dhargyey địa phương cho đến khi 18 tuổi.
(Xem: 2309)
Này Tashi Lhamo[2] thành kính, nếu con muốn đạt giác ngộ, Hãy suy nghĩ xem thật khó khăn làm sao mới có được thân người tự dothuận duyên này.
(Xem: 1951)
Nhìn chung, chúng ta có thể nói rằng có hai phần trong truyền thừa Barom Kagyu: truyền thừa truyền miệng dài và truyền thừa ngắn của linh kiến sâu xa.
(Xem: 2911)
Khi cặp vợ chồng từ tộc Drenka ở Penyul trở thành cha mẹ tự hào của một người contrai vào năm 1127, họ đặt tên cậu bé theo một Kinh điển:
(Xem: 1978)
Ngài Drapa Ngonshe sinh vào năm Thủy Tý đực (tức năm 1012 Dương lịch) với cha là ông Zhangtag Karwa, người đã đặt tên Ngài là Taktsab.
(Xem: 2343)
Ngài Phakmodrupa Dorje Gyalpo sinh năm 1110 và được nuôi dưỡng bởi cha mẹ nghèo khó ở phía Nam của Kham.
(Xem: 1764)
Từ quan điểm chiêm tinh, tháng Thân linh thiêng tương ứng với tháng 5 Âm lịch Tây Tạng. Ngài Terdak Lingpa[3], em trai[4] và Đức Dalai Lama thứ Năm ...
(Xem: 1655)
Theo các tiểu sử, Bà Mandarava là một công chúa thông tuệ, thiện lành và xinh đẹp, sinh ra trong một gia đình hoàng gia ở Zahor,
(Xem: 2388)
Khandro Tare Lhamo sinh năm Thổ Dần 1938 trong thung lũng Bokyi Yumolung của vùng du mục Golok.
(Xem: 1467)
Sera Khandro Kunzang Dekyong Wangmo sinh ra trong một gia đình giàu có, quyền lực về chính trị ở Lhasa.
(Xem: 2780)
Bà Jetsun Jampa Chokyi sinh vào ngày 30 tháng 12 năm Thủy Tuất (1922). Cha Bà, Sonam Tobgyal, xuất thân từ gia đình...
(Xem: 1823)
Dưới chân đạo sư, con đỉnh lễ. Nhớ về vô thường và cái chết, Đẩy lui bám chấp với đời này và trưởng dưỡng xả ly –
(Xem: 3739)
Đức Riwoche Jedrung thứ bảy – Jampa Jungne sinh năm 1856 trong gia đình Shol Danak của Tu viện Riwoche ở Kham,
(Xem: 2072)
Sau đây là ảnh hưởng từ hành vi của bạn tốt: Đồng hành cùng vị uyên bác giúp tăng trưởng sự thông tuệ. Đồng hành cùng vị bi mẫn giúp đánh thức Bồ đề tâm.
(Xem: 1927)
Thân người tự dothuận duyên này mà con đã có được. Cung cấp nền tảng để đạt được hỷ lạc vĩnh cửu.
(Xem: 2462)
Từng có một học trò, người đến gặp đạo sư để thỉnh cầu chỉ dẫn. Vị đạo sư sắp rời đi và đang vội nhưng Ngài vẫn chấp nhận lời thỉnh cầu.
(Xem: 1870)
Đầu tiên trong sáu ba la mật, bố thí ba la mật, không phải chỉ là về trao cho người nghèo.
(Xem: 2780)
Nhìn chung, những điểm then chốt để thấu triệt giáo lý của Phật là: Được thúc đẩy bởi sự xả ly và Bồ đề tâm, Tránh ác hạnhnỗ lực làm các thiện hạnh,
(Xem: 1604)
Đầu tiên, bởi thân người này – sự hỗ trợ cho các phẩm tính của giải thoát – khó được, chúng ta phải hướng các ý nghĩ rời khỏi những vấn đề của đời này.
(Xem: 2499)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 2595)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 1998)
Liều thuốc giải cho ảo tưởng, bản ngã và từng vấn đề khác mà chúng ta đối mặt là trí huệ của Pháp;
(Xem: 3573)
Khi bắt đầu thiền định, một trong những cách thức để tăng trưởng Bồ đề tâmlòng bi mẫnthực hành cho và nhận
(Xem: 3021)
Thực hành chính yếu mà thầy tiến hành trong tù ngục là Tong-len (cho và nhận). Khenpo Munsel[1] đã trao cho thầy nhiều chỉ dẫn khẩu truyền đặc biệt về Tong-len, điều không có trong bản văn.
(Xem: 1957)
Bardor Tulku Rinpoche sinh năm 1949 ở Kham, miền Đông Tây Tạng. Từ rất nhỏ, Ngài đã được Đức Gyalwang Karmapa thứ 16 công nhậnhóa hiện thứ ba của Terchen Barway Dorje[1].
(Xem: 1985)
Môn đồ Nyingma của Chân ngôn Bí mật nhấn mạnh vào Mật điển thực sự[2]. Họ theo đuổi tri kiến cao nhất và ham thích hành vi ổn định.
(Xem: 2314)
Con đỉnh lễ đạo sư và đấng bảo hộ Văn Thù Sư Lợi! Trước tiên, hãy quy y Tam Bảo,
(Xem: 2020)
Một vị khác đã nghe những chỉ dẫn về cách tiếp cận Dzogchen Đại Viên Mãn từ Adzom Drukpa Rinpoche Drodul Pawo Dorje
(Xem: 1858)
Bopa Tulku Dongak Tenpe Nyima là một đệ tử của Kunpal Rinpoche[2], vị giữ gìn truyền thống thanh tịnh của Jamgon Mipham Rinpoche
(Xem: 2421)
Tôi, Pema Tsewang Lhundrup, đã chào đời trong năm Kim Mùi của chu kỳ lịch thứ mười sáu (tức năm 1931).
(Xem: 2079)
Khunkhen Pema Karpo là một trong những vị tổ dòng Phật giáo Drukpa Kayu ở miền xứ Tuyết.
(Xem: 2124)
Đạo sư vô song, Phật Thế Tôn; Giáo Pháp linh thiêng, thù thắng và chẳng dối lừa;
(Xem: 2530)
Mọi người đã đưa ra nhiều câu hỏi liên quan đến ý nghĩa của quy y và vì lý do đó, thầy đã thiết kế thẻ quy y mới này.
(Xem: 3601)
Nếu thời gian của con trong khóa nhập thất được sử dụng tốt, con sẽ làm hài lòng chư Phật cùng những vị trưởng tử, giúp hoàn thành...
(Xem: 2171)
Điều này được gửi đến những vị đang trong khóa nhập thất ba năm tại Pháp.
(Xem: 3282)
Sau khi phát khởi Bồ đề tâm trong Mật thừa và thọ nhận một quán đỉnh, người ta bước qua cánh cửa dẫn vào thực hành Mật thừa.
(Xem: 2923)
Một số đạo hữu đã yêu cầu thầy giải thích ý nghĩa của đai thiền định. Nói chung, đai thiền định được sử dụng bởi Tổ Milarepa khi thực hành Sáu Du Già Của Naropa.
(Xem: 5200)
Phật Thế Tôn đã giảng dạy bản văn sau đây, điều đem đến lợi lạc trong thời kỳ đen tối.
(Xem: 2576)
Om Ah Hung. Hôm nay, thầy có được cơ hội tuyệt vời để chia sẻ đôi lời về giới quy y.
(Xem: 3859)
Terton Lerab Lingpa Trinle Thaye Tsal vĩ đại, tức Terton Sogyal, là hóa hiện về thân của Tổ Nanam Dorje Dudjom[1], hóa hiện về khẩu của Kim Cương Hợi Mẫuhóa hiện về ý của Đại Sư Liên Hoa Sinh.
(Xem: 5263)
Hôm nay, chúng ta đều đã đến Vườn Cấp Cô Độc ở thành Xá Vệ, Ấn Độ, vùng đất của chư Thánh giả, nơi đã được cúng dường lên Đức Phật.
(Xem: 3812)
Điều đầu tiên mà bạn cần hiểu là mọi hữu tình chúng sinh đang sống trên thế giới này – ‘hữu tình chúng sinh của tam giới của sự tồn tại’ – là một sản phẩm của tâm.
(Xem: 2720)
Khi chúng ta nhìn vào hiện tượng vật chất trong thế giới này, chúng ta thấy rằng tất cả mọi sự vật hiện tượng xảy ra đều có nguyên nhân của nó.
(Xem: 2460)
Guru Rinpoche chào đời tám năm sau khi Đức Phật nhập diệt. Khi Đức Phật nhập diệt, Ngài sách tấn các đệ tử hãy hoan hỷ bởi Ngài sẽ trở lại là Guru Rinpoche.
(Xem: 2669)
Gần đây, nhiều người hỏi về Khandro Rinpoche tôn quý và những hoạt động tâm linh của Bà.
(Xem: 3658)
Với những vị nhấn mạnh duy nhất vào việc trưởng dưỡng Bồ đề tâm trong cuộc đời, lời khuyên thích hợp cho họ khi tiến gần đến cái chết là nương tựa năm sức mạnh để định hướng lối đi của họ đến đời sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant