Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983
PHẨM THẬP ÐỊNH
THỨ
HAI MƯƠI BẢY
Chư Phật-tử! Thế nào là đại Bồ-Tát
tri quá-khứ trang-nghiêm tạng tam-muội?
Ðại Bồ-Tát nầy biết được quá-khứ chư
Phật xuất hiện. Những là các cõi thứ đệ trong kiếp thứ đệ, các kiếp thứ đệ
trong cõi thứ đệ, chư Phật xuất hiện thứ đệ trong kiếp thứ đệ, thuyết-pháp thứ
đệ trong chư Phật xuất hiện thứ đệ, các tâm nguyện thứ đệ trong thuyết pháp thứ
đệ, các căn tánh thứ đệ trong tâm nguyện thứ đệ, điều-phục thứ đệ trong căn
tánh thứ đệ, chư Phật thọ-mạng thứ đệ trong điều phục thứ đệ, biết ức na-do-tha
số lượng năm tuổi thứ đệ trong thọ-mạng thứ đệ.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát nầy vì được
vô-biên thứ-đệ trí như vậy nên biết quá-khứ chư Phật, nên biết quá-khứ các cõi,
nên biết quá-khứ pháp-môn, nên biết quá-khứ các kiếp, nên biết quá-khứ các
pháp, nên biết quá-khứ các tâm, nên biết quá-khứ các tri-giải, nên biết qúa khứ
các chúng-sanh, nên biết quá-khứ các phiền-não, nên biết quá-khứ các nghi-thức,
nên biết quá-khứ các thanh-tịnh.
Chư Phật-tử ! Tam-muội nầy tên là quá
khứ thanh-tịnh tạng. Trong một niệm có thể nhập trăm kiếp, có thể nhập ngàn
kiếp, có thể nhập trăm ngàn kiếp, có thể nhập trăm ngàn ức na-do-tha kiếp, có
thể nhập vô-số kiếp, có thể nhập vô-lượng kiếp, có thể nhập vô-biên kiếp, có
thể nhập vô-đẳng kiếp, có thể nhập bất-khả-sổ kiếp, có thể nhập bất-khả-xưng
kiếp, có thể nhập bất-khả-tư kiếp, có thể nhập bất-khả-lượng kiếp, có thể nhập
bất-khả-thuyết kiếp, có thể nhập bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết kiếp.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát nhập
tam-muội nầy chẳng diệt hiện-tại, chẳng duyên quá-khứ.
Ðại Bồ-Tát nầy từ tam-muội khởi, thọ
nơi đức Như-Lai mười thứ pháp quán đảnh bất-tư-nghì, cũng được, cũng
thanh-tịnh, cũnh thành-tựu, cũng nhập, cũng chứng, cũng mãn, cũng trì,
bình-đẳng biết rõ ba luân thanh-tịnh.
Ðây là mười : một là biện thuyết
chẳng trái nghĩa, hai là thuyết pháp vô-tận, ba là huấn từ không lỗi, bốn là
nhạo thuyết chẳng dứt, năm là tâm không khủng bố, sáu là lời quyết thành thiệt,
bảy là chúng-sanh y-tựa, tám là cứu thoát ba cõi, chín là thiện-căn tối-thắng,
mười là điều ngự diệu-pháp.
Trên đây là mười pháp quán-đảnh. Nếu
Bồ-Tát nhập tam-muội nầy, từ tam-muội xuất liền được.
Như ca-la-lã lúc nhập thai-tạng,
trong một niệm thức liền thác sanh.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát từ tam-muội nầy
xuất, trong một niệm thời được mười pháp nầy nơi đức Như-Lai.
Trên đây gọi là trí thiện-xảo biết
quá-khứ trang-nghiêm-tạng đại tam-muội thứ năm của đại Bồ-Tát.
Chư Phật-tử ! Thế nào là đại Bồ-Tát
trí-quang-minh-tạng đại tam-muội ?
Ðại Bồ-Tát trụ tam-muội nầy có thể
biết vị-lai chư Phật trong tất cả kiếp tất cả thế-giới, hoặc đã nói hoặc chưa
nói, hoặc đã thọ-ký hoặc chưa thọ-ký, các loại danh hiệu chẳng đồng. Những là
vô-số danh, vô-lượng danh, vô-biên danh, vô-đẳng danh, bất-khả-sổ danh,
bất-khả-xưng danh, bất-khả-tư danh, bất-khả-lượng danh, bất-khả-thuyết danh. Sẽ
xuất thế, sẽ độ sanh, sẽ làm Pháp- Vương, sẽ khởi phật-sự, sẽ nói phước lợi, sẽ
khen thiện-nghĩa, sẽ nói bạch-phần-nghĩa, sẽ trừ sạch các điều ác, sẽ an-trụ
công-đức, sẽ khai-thị đệ-nhất-nghĩa-đế, sẽ nhập quán-đảnh-vị, sẽ thành
nhứt-thiết-trí. Chư Phật đó tu hạnh viên-mãn, phát nguyện viên-mãn, nhập
viên-mãn trí, có viên-mãn chúng, đủ viên-mãn trang-nghiêm, họp viên-mãn
công-đức, ngộ viên-mãn pháp, được viên-mãn quả, đủ viên-mãn tướng, thành
viên-mãn giác. Chư Phật đó, danh tánh chủng-tộc, phương-tiện thiện-xảo
thần-thông biến-hóa, thành-thục chúng-sanh, nhập niết-bàn, tất cả những điều
như vậy, Bồ-Tát nầy biết rõ cả.
Trong một niệm, Bồ-Tát nầy có thể
nhập một kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, trăm ngàn kiếp, trăm ngàn ức na-do-tha
kiếp. Có thể nhập Diêm-Phù-Ðề vi-trần số kiếp, tứ thiên-hạ vi-trần số kiếp,
tiểu-thiên thế-giới vi-trần-số kiếp, trung thiên thế-giới vi-trần số kiếp, đại
thiên thế-giới vi-trần số kiếp. Có thể nhập trăm phật-sát vi-trần số kiếp, trăm
ngàn phật-sát vi-trần số kiếp, trăm ngàn ức na-do-tha phật-sát vi-trần số kiếp,
vô-số phật-sát vi-trần số kiếp, vô-lượng phật-sát vi-trần số kiếp, vô-biên
phật-sát vi-trần số kiếp, vô-đẳng phật-sát vi-trần số kiếp, bất-khả-sổ phật-sát
vi-trần số kiếp, bất-khả-xưng phật-sát vi-trần số kiếp, bất-khả-tư phật-sát
vi-trần số kiếp, bất-khả-lượng phật-sát vi-trần số kiếp, bất-khả-thuyết
phật-sát vi-trần số kiếp, nhẫn đến nhập bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát
cực vi-trần số kiếp.
Vị-lai tất cả thế-giới có ngần ấy kiếp
số như vậy, Bồ-Tát nầy có thể dùng trí-huệ đều biết rõ. Vì biết rõ nên tâm
Bồ-Tát nầy lại nhập mười thứ trì-môn. Ðây là mười :
Vì nhập Phật-trì nên được
bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần số chư Phật hộ-niệm.
Vì nhập Pháp-trì nên được mười thứ
đà-la-ni quang-minh vô-tận biện-tài.
Vì nhập Hạnh-trì nên xuất sanh các
nguyện viên mãn thù-thắng.
Vì nhập Lực-trì nên không ai che
chướng được, không ai khuất phục được.
Vì nhập Trí-trì nên thật hành
phật-pháp không có chướng ngại.
Vì nhập Ðại-bi-trì nên chuyển pháp
luân bất-thối thanh-tịnh.
Vì nhập Sai-biệt-thiện-xảo-cú-trì
nên chuyển tất cả văn-tự-luân, tịnh tất cả pháp-môn-địa.
Vì nhập Sư-tử-thọ-sanh-pháp-trì nên
mở khóa cửa pháp, ra khỏi bùn lầy tham dục.
Vì nhập Trí-lực-trì nên tu hạnh
Bồ-Tát thường chẳng thôi nghỉ.
Vì nhập Thiện hữu-lực-trì nên làm
cho vô-biên chúng-sanh đều được thanh-tịnh.
Vì nhập Vô-trụ-lực-trì nên nhập
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết quảng đại kiếp.
Vì nhập Pháp-lực-trì nên dùng
vô-ngại phương-tiện trí biết tất cả pháp tự-tánh thanh-tịnh.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát đã trụ
tam-muội nầy rồi thời khéo hay trụ bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết kiếp, khéo hay
trụ bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết cõi, khéo hay biết bất-khả-thuyết
bất-khả-thuyết các loài chúng-sanh, khéo hay biết bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết
tướng khác nhau của chúng-sanh, khéo hay biết bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết
nghiệp báo đồng dị, khéo hay biết bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết những căn
tinh-tấn tập-khí tiếp nối các hạnh sai-biệt, khéo hay biết bất-khả-thuyết
bất-khả-thuyết vô-lượng nhiễm tịnh các thứ tư-duy, khéo hay biết bất-khả-thuyết
bất-khả-thuyết các loại pháp nghĩa vô-lượng văn-tự ngôn từ diễn thuyết, khéo
hay biết bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết chư Phật xuất-thế chủng tộc thời-tiết
hiện tướng thuyết pháp thi vi phật-sự nhập niết-bàn, khéo hay biết
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết vô-biên môn trí-huệ, khéo hay biết bất-khả-thuyết
bất-khả-thuyết tất cả thần-thông vô-lượng biến hiện.
Chư Phật-tử ! Ví như mặt nhựt mọc
lên soi sáng thế-gian tất cả vật loại, như thành ấp, cung-điện, nhà cửa, núi
sông, chim thú, vườn rừng, bông trái vân vân, người có mắt sáng thời đều thấy
rõ cả. Ánh sáng mặt nhựt bình-đẳng không phân-biệt có thể làm cho Bồ-Tát khéo
biết bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết trăm ngàn ức na-do-tha tướng sai khác.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát nầy lúc rõ
biết như vậy khiến chúng-sanh được mười thứ bất-không. Ðây là mười :
Một là kiến bất-không, vì làm cho
chúng-sanh phát sanh thiện-căn.
Hai là văn bất-không, vì làm cho
chúng-sanh được thành-thục.
Ba là đồng-trụ bất-không, vì làm cho
chúng sanh tâm điều-phục.
Bốn là phát khởi bất không, vì làm
cho chúng-sanh thật hành đúng như lời, thông đạt tất cả pháp nghĩa.
Năm là hạnh bất-không, vì làm cho
vô-biên thế-giới đều thanh-tịnh.
Sáu là thân-cận bất-không, vì ở chỗ
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết chư Phật dứt nghi ngờ cho bất-khả-thuyết
bất-khả-thuyết chúng-sanh.
Bảy là chuyện bất-không, vì theo sở
niệm của chúng-sanh khiến làm việc cúng dường thù-thắng thành-tựu các nguyện.
Tám là thiện-xảo pháp bất-không vì
làm cho đều được trụ nơi trí thanh-tịnh giải-thoát vô-ngại.
Chín là mưa pháp-vũ bất-không, vì
nơi bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết căn-tánh chúng-sanh, phương-tiện khai-thị
hạnh nhứt-thiết-trí khiến trụ phật-đạo.
Mười là xuất hiện bất-không, vì hiện
vô-biên tướng, làm cho tất cả chúng-sanh đều được soi sáng.
Chư Phật-tử ! Lúc đại Bồ-Tát an trụ
nơi tam-muội nầy được mười thứ bất-không, thời chư Thiên-Vương đều đến đảnh lễ,
chư Long-Vương nổi mây thơm lớn. chư Dạ-Xoa-Vương đảnh lễ dưới chưn, chư
A-Tu-La-Vương cung kính cúng-dường, chư Ca-Lâu-La-Vương tôn trọng đứng quanh,
chư Phạm-Thiên-Vương đều đến thỉnh cầu, chư Càn-Thát-Bà-Vương thường đến chầu
chực, chư Khẩn-Na-La-Vương và chư Ma-Hầu-La-Dà Vương đều cùng ngợi khen, chư
Nhơn-Vương kính thờ cúng-dường.
Trên đây là trí thiện-xảo
trí-quang-minh-tạng đại tam-muội thứ sáu của đại Bồ-Tát.
Chư Phật-tử ! Thế nào là
liễu-tri-nhứt-thiết thế-giới
Phật trang-nghiêm tam-muội của đại
Bồ-Tát ?
Sao lại gọi tam-muội nầy là
liễu-tri-nhứt-thiết thế-giới Phật trang-nghiêm ?
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát trụ trong
tam-muội nầy, hay thứ-đệ nhập thế-giới phương đông, hay thứ-đệ nhập thế-giới
phương nam, phương tây, phương bắc, đông nam, tây nam, tây bắc, đông bắc,
thượng phương và hạ phương. Ðều thấy chư Phật xuất thế, cũng thấy tất cả
thần-lực của đức Phật đó, cũng thấy những sự biến-hóa của chư Phật, cũng thấy
oai-đức rộng lớn của chư Phật, cũng thấy sự tối-thắng tự-tại của chư Phật, cũng
thấy chư Phật đại sư-tử-hống, cũng thấy những công-hạnh đã tu của chư Phật,
cũng thấy các loại trang-nghiêm của chư Phật, cũng thấy chư Phật thần-thông
biến-hóa, cũng thấy chúng-hội của chư Phật vân tập, chúng-hội thanh-tịnh,
chúng-hội quảng-đại, chúng-hội nhứt tướng, chúng-hội nhiều tướng, chúng-hội
xứ-sở, chúng-hội an ở, chúng-hội thành-thục, chúng-hội điều phục, chúng-hội
oai-đức. Tất cả những việc như vậy Bồ-Tát nầy đều thấy rõ. Cũng thấy chúng-hội
số lượng lớn nhỏ bằng Diêm-Phù-Ðề, hoặc bằng tứ thiên-hạ, hoặc bằng tiểu-thiên
thế-giới, hoặc bằng trung-thiên thế-giới, hoặc bằng đại-thiên thế-giới. Cũng
thấy chúng-hội đầy khắp trăm ngàn ức na-do-tha cõi Phật, hoặc đầy khắp vô-số
cõi Phật, hoặc đầy khắp trăm phật-sát vi-trần-số cõi Phật, hoặc đầy khắp ngàn
Phật-sát vi-trần-số cõi Phật, hoặc đầy khắp trăm ngàn ức na-do-tha Phật-sát
vi-trần-số cõi Phật, hoặc đầy khắp vô-số phật-sát vi-trần-số cõi Phật, hoặc đầy
khắp vô-lượng phật-sát vi-trần-số cõi Phật, hoặc đầy khắp vô-biên phật-sát
vi-trần-số cõi Phật, hoặc đầy khắp vô-đẳng phật-sát vi-trần-số cõi Phật, hoặc
đầy khắp bất-khả-sổ phật-sát vi-trần-số cõi Phật, hoặc đầy khắp bất-khả-xưng
phật-sát vi-trần-số cõi Phật, hoặc đầy khắp bất-khả-tư phật-sát vi-trần-số cõi
Phật, hoặc đầy khắp bất-khả-lượng phật-sát vi-trần-số cõi Phật, hoặc đầy khắp
bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số cõi Phật, nhẫn đến cũng thấy chúng-hội đầy
khắp bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số cõi Phật. Cũng thấy chư
Phật ở trong chúng-hội đạo-tràng kia thị-hiện các loại tướng trạng, các loại
thời gian, các loại quốc-độ, các loại biến-hóa, các loại thần-thông, các loại
trang-nghiêm, các loại tự-tại, các loại hình lượng, các loại sự-nghiệp.
Ðại Bồ-Tát nầy cũng thấy tự-thân qua
chúng-hội đó, thấy mình thuyết-pháp, thấy mình lãnh thọ lời Phật, cũng thấy
mình khéo biết duyên-khởi, cũng thấy thân mình ở giữa không-gian, cũng thấy
thân mình ở nơi pháp-thân, cũng thấy thân mình chẳng sanh nhiễm trước, cũng
thấy thân mình chẳng ở nơi phân-biệt, cũng thấy thân mình không mỏi nhọc, cũng
thấy thân mình vào khắp các trí, cũng thấy thân mình biết khắp các nghĩa, cũng
thấy thân mình vào khắp các địa, cũng thấy thân mình vào khắp các loài, cũng
thấy thân mình biết khắp phương-tiện, cũng thấy thân mình qua khắp trước Phật,
cũng thấy thân mình vào khắp các lực, cũng thấy thân mình vào khắp chơn-như,
cũng thấy thân mình vào khắp vô-tránh, cũng thấy thân mình vào khắp các pháp.
Lúc thấy như vậy, Bồ-Tát nầy chẳng phân-biệt quốc-độ, chẳng phân biệt
chúng-sanh, chẳng phân biệt Phật, chẳng phân biệt pháp, chẳng nhiễm trước thân
và thân nghiệp, chẳng chấp trước tâm và ý.
Ví như các pháp chẳng phân-biệt
tự-tánh, chẳng phân-biệt âm-thanh, mà tự-tánh chẳng bỏ, danh tự chẳng mất.
Ðại Bồ-Tát cũng vậy, chẳng bỏ
công-hạnh, làm theo thế-gian, mà vẫn không chấp trước nơi hai sự nầy.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát thấy Phật
có vô-lượng ánh sáng màu sắc, vô-lượng hình tướng, đều viên mãn thành-tựu
bình-đẳng thanh-tịnh, mỗi mỗi hiện-tiền chứng biết phân minh.
Hoặc thấy thân Phật nhiều ánh sáng
hoặc thấy viên-quang một tầm, hoặc thấy sáng rực như mặt nhựt, hoặc thấy quang sắc
vi-diệu, hoặc thấy sắc thanh-tịnh, hoặc thấy màu huỳnh-kim, hoặc thấy màu
kim-cang, hoặc thấy màu xanh biếc, hoặc thấy vô-biên màu sắc, nhẫn đế hoặc thấy
thân Phật màu đại-thanh ma-ni-bửu.
Hoặc thấy thân Phật cao bảy thước
tay, hoặc tám thước tay, hoặc chín thước tay, hoặc mười thước tay, hoặc hai
mươi thước tay, ba mươi thước tay, một trăm thước tay, một ngàn thước tay, hoặc
thấy thân Phật cao một câu-lô-xá, nửa do-tuần, một do-tuần, mười do-tuần, trăm
do-tuần, ngàn do-tuần, trăm ngàn do-tuần, hoặc thấy thân Phật bằng Diêm-Phù-Ðề,
tứ-thiên-hạ bằng tiểu-thiên thế-giới, bằng trung- thiên thế-giới, bằng
đại-thiên thế-giới, bằng trăm đại-thiên thế-giới, bằng ngàn đại-thiên thế-giới,
bằng vẫn chẳng giảm. Ở tại mặt nguyệt thấy là lớn, cũng chẳng tăng.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát trụ tam-muội
nầy tùy nơi tâm nguyện thấy thân Phật các thứ tướng hóa-hiện, ngôn từ thuyết
pháp thọ-trì chẳng quên, mà thân Như-Lai chẳng tăng chẳng giảm.
Ví như chúng-sanh sau khi mạng chung
lúc sắp thọ sanh chỗ thấy thanh-tịnh chẳng rời nơi tâm.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát chẳng rời
tam-muội thậm thâm nầy mà thấy thanh-tịnh.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát trụ
tam-muội nầy thành-tựu mười thứ pháp mau chóng : những là mau thêm các hạnh
viên-mãn đại-nguyện, mau dùng pháp-quang chói sáng thế-gian mau dùng
phương-tiện chuyển-pháp-luân độ thoát chúng-sanh, mau tùy theo nghiệp
chúng-sanh thị-hiện quốc-độ thanh-tịnh của chư Phật, mau dùng trí bình-đẳng
thẳng vào thập-lực, mau cùng tất cả Như-Lai đồng trụ, mau dùng sức đại-từ dẹp
phá quân ma, mau dứt nghi cho chúng-sanh hoan-hỉ, mau tùy thắng-giải thị-hiện
thần-biến, mau dùng các thứ diệu pháp ngôn từ tịnh các thế-gian.
Ðại Bồ-Tát nầy lại được mười thứ
pháp ấn, để ấn tất cả pháp : một là đồng thiện-căn bình-đẳng với tam-thế chư
Phật, hai là đồng được trí-huệ pháp-thân vô-biên-tế với chư Phật, ba là đồng
chư Như-Lai trụ pháp bất nhị, bốn là đồng chư Như-Lai quan-sát tam-thế vô-lượng
cảnh-giới thẩy đều bình-đẳng, năm là đồng chư Như-Lai được liễu đạt pháp-giới
vô-ngại cảnh-giới, sáu là đồng chư Như-Lai thành-tựu thập-lực thật là vô-ngại,
bảy là đồng chư Như-Lai tuyệt hẳn hai hạnh, trụ pháp vô-tránh, tám là đồng chư
Như-Lai giáo-hóa chúng-sanh hằng chẳng thôi nghỉ, chín là đồng chư Như-Lai ở
trong trí thiện-xảo nghĩa thiện-xảo hay khéo quan-sát, mười là đồng chư Như-Lai
cùng với tất cả Phật bình-đẳng không hai.
Chư Phật-tử ! Nếu đại Bồ-Tát
thành-tựu mười pháp-ấn nầy thời rõ biết môn phương-tiện thiện-xảo tất cả
thế-giới phật trang-nghiêm đại tam-muội. Là bực vô-sư, vì chẳng do người khác
dạy mà tự nhập tất cả phật-pháp. Là bực trượng-phu, vì hay khai ngộ tất cả
chúng sanh. Là bực thanh-tịnh vì biết tâm-tánh bổn-tịnh. Là bực đệ-nhứt vì hay
độ thoát-tất cả thế-gian. Là bực an-ủy vì hay khai hiểu tất cả chúng-sanh. Là
bực an-trụ, vì người chưa trụ phật-chủng-tánh thời làm cho được trụ. Là bực
chơn-thiệt-tri vì nhập môn mhứt-thiết-trí. Là bực vô-dị-tưởng vì lời nói không
hai. Là bực trụ pháp-tạng, vì thệ nguyện rõ biết tất cả phật-pháp. Là bực hay
mưa pháp-vũ vì tùy tâm nguyện của chúng-sanh đều làm cho đầy đủ.
Chư Phật-tử ! Ví như Ðế-Thích, nơi
búi tóc trên đầu để châu ma-ni, vì bửu-châu nầy mà oai-quang càng thạnh.
Thiên-Ðế lúc mới được bửu-châu nầy, thời được mười pháp vượt hơn tất cả
tam-thập-tam thiên : một là sắc tướng, hai là hình thể, ba là thị-hiện, bốn là
quyến-thuộc, năm là đồ dùng, sáu là âm-thanh, bảy là thần-thông, tám là tự-tại,
chín là huệ-giải, mười là trí-dụng.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát lúc mới được
tam-muội nầy thời được mười môn trí-tạng quảng-đại : một là trí chiếu sáng tất
cả cõi Phật, hai là trí biết tất cả chúng-sanh thọ sanh, ba là trí làm sự
biến-hóa khắp tam-thế, bốn là trí vào khắp tất cả thân Phật, năm là trí thông
đạt tất cả phật-pháp, sáu là trí nhiếp khắp tất cả tịnh-pháp, bảy là trí khiến
khắp tất cả chúng-sanh nhập pháp-thân, tám là trí hiện thấy tất cả pháp
phổ-nhãn thanh-tịnh, chín là trí tất cả tự-tại đến bỉ-ngạn, mười là trí an-trụ
tất cả pháp quảng đại khắp hết không thừa.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát trụ
tam-muội nầy lại được mười thứ thân oai-đức rất thanh-tịnh : một là vì chiếu
sáng bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết thế-giới mà phóng bất-khả-thuyết
bất-khả-thuyết vầng quang-minh, hai là vì làm cho thế-giới đều thanh-tịnh mà
phóng bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết vầng quang-ming vô-lượng sắc-tướng, ba là
vì điều phục chúng-sanh mà phóng bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết vầng quang-minh,
bốn là vì thân cận tất cả chư Phật mà hóa làm bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết
thân, năm là vì thừa sự cúng-dường tất cả chư Phật mà rưới bất-khả-thuyết
bất-khả-thuyết các thứ mây hoa hương thù-diệu, sáu là vì thừa sự cúng-dường tất
cả chư Phật và điều phục tất cả chúng-sanh mà trong mỗi mỗi lỗ chưn lông hóa
làm bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết các thứ âm nhạc, bảy là vì thành-thục
chúng-sanh mà hiện bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết vô-lượng các thứ thần-biến
tự-tại, tám là vì nơi chỗ tất cả chư Phật mười phương cầu thỉnh diệu-pháp mà
một bước vượt qua bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết thế-giới, chín là vì làm cho
tất cả chúng-sanh, những ai nghe thấy đều chẳng luống uổng mà hiện
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết sắc-thân vô-lượng tướng thanh-tịnh không ai thấy
được đảnh, mười là vì khai-thị vô-lượng pháp bí-mật cho chúng-sanh mà phát
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết âm-thanh ngôn-ngữ.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát được mười
thứ thân oai-đức rất thanh-tịnh nầy rồi, thời có thể làm cho chúng-sanh được
mười thứ viên-mãn : Một là làm cho chúng-sanh được thấy Phật, hai là làm cho
chúng-sanh thâm-tín nơi Phật, ba là làm cho chúng-sanh được nghe pháp, bốn là
làm cho chúng-sanh biết có cõi Phật, năm là làm cho chúng-sanh thấy thần-biến
của Phật, sáu là làm cho chúng-sanh nhớ nghiệp đã tập họp, bảy là làm cho
chúng-sanh định tâm viên-mãn, tám là làm cho chúng-sanh nhập Phật thanh-tịnh,
chín là làm cho chúng-sanh phát bồ-đề tâm, mười là làm cho chúng-sanh viên-mãn
phật-trí.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát làm cho chúng-sanh
được mười thứ viên-mãn rồi, lại vì chúng-sanh mà làm mười thứ phật-sự. Những là
dùng âm-thanh làm phật-sự vì thành-thục chúng-sanh. Dùng sắc hình làm phật-sự
vì điều-phục chúng-sanh. Dùng ức niệm làm phật-sự vì thanh-tịnh chúng-sanh.
Dùng chấn-động thế-giới làm phật-sự vì khiến chúng-sanh lìa ác-thú. Dùng
phương-tiện giác-ngộ làm phật-sự vì khiến chúng-sanh chẳng thất-niệm. Dùng
tướng trong mộng làm phật-sự vì khiến chúng-sanh thường chánh-niệm. Dùng phóng
đại quang-minh làm phật-sự vì nhiếp lấy khắp chúng-sanh. Dùng tu tập bồ-tát
hạnh làm phật-sự vì làm cho chúng-sanh trụ thắng-nguyên. Dùng thành
đẳng-chánh-giác làm phật-sự vì làm cho chúng-sanh biết pháp huyễn. Dùng chuyển
diệu-pháp-luân làm phật-sự, do vì đại chúng mà thuyết-pháp chẳng lỗi thời. Dùng
hiện-trụ thọ-mạng làm phận-sự vì điều-phục tất cả chúng-sanh. Dùng thị-hiện
nhập niết-bàn làm phật-sự, vì biết các chúng-sanh nhàm mỏi.
Trên đây là trí thiện-xảo rõ biết
tất cả cõi Phật trang-nghiêm đại tam-muội thứ bảy của đại Bồ-Tát.
(2) Chư Phật-tử !
Thế nào là nhứt-thiết chúng-sanh sai-biệt thân đại tam-muội của đại Bồ-Tát ?
Ðại Bồ-Tát trụ tam-muội nầy được
mười thứ vô-sở-trước : những là nơi tất cả cõi vô-sở-trước, nơi tất cả phương
vô-sở-trước, nơi tất cả kiếp vô-sở-trước, nơi tất cả chúng vô-sở-trước, nơi tất
cả pháp vô-sở-trước, nơi tất cả Bồ-Tát vô-sở-trước, nơi tất cả Bồ-Tát nguyện
vô-sở-trước, nơi tất cả tam-muội vô-sở-trước, nơi tất cả Phật vô-sở-trước, nơi
tất cả địa vô-sở-trước.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát nơi
tam-muội nầy, nhập thế nào ? khởi thế nào ?
Ðại Bồ-Tát nơi tam-muội nầy,
nội-thân nhập ngoại-thân khởi, ngoại-thân nhập nội-thân khởi, đồng-thân nhập
dị-thân khởi, dị-thân nhập đồng-thân khởi, nhơn-thân nhập dạ-xoa thân khởi,
dạ-xoa thân nhập long-thân khởi, long-thân nhập a-tu-la thân khởi, a-tu-la thân
nhập thiên-thân khởi, thiên-thân nhập phạm-vương thân khởi, phạm-vương thân
nhập dục-giới thân khởi, thiên-trung nhập địa-ngục khởi, địa-ngục nhập
nhơn-gian khởi, nhơn-gian nhập loài khác khởi, ngàn thân nhập một thân khởi,
một thân nhập ngàn thân khởi, na-do-tha thân nhập một thân khởi, một thân nhập
na-do-tha thânkhởi, trong chúng nam-châu nhập trong chúng tây-châu khởi, trong
chúng tây-châu nhập trong chúng bắc-châu khởi, trong chúng bắc-châu nhập trong
chúng đông-châu khởi, trong chúng đông-châu nhập trong chúng ba châu kia khởi,
trong chúng ba châu nhập trong chúng bốn châu khởi, trong chúng bốn châu nhập
trong chúng tất cả biển sai-biệt khởi, trong chúng tất cả biển sai-biệt nhập
trong chúng tất cả hải-thần khởi, trong chúng tất cả hải-thần nhập trong
thủy-đại khởi, trong thủy-đại nhập trong địa-đại khởi, trong địa-đại nhập trong
hỏa-đại khởi, trong hỏa-đại nhập trong phong-đại khởi, trong phong-đại nhập
trong tất cả tứ-đại-khởi, trong tất cả tứ đại nhập trong pháp vô-sanh khởi,
trong pháp vô-sanh nhập trong núi Tu-Di khởi, trong núi Tu-Di nhập trong bảy
Bửu-Sơn khởi, trong bảy Bửu-Sơn nhập trong tất cả cây cỏ lùm rừng hắc-sơn khởi,
trong tất cả lùm rừng hắc-sơn nhập trong tất cả diệu-hương hoa bửu trang-nghiêm
khởi, trong tất cả trang-nghiêm nhập trong tất cả chúng-sanh thọ sanh nơi bốn
châu thượng-phương hạ-phương khởi, trong tất cả chúng-sanh thọ-sanh nhập trong chúng-sanh
nơi Tiểu-Thiên thế-giới khởi, trong chúng-sanh nơi Tiểu-Thiên Thế-Giới nhập
trong chúng-sanh nơi Trung-Thiên Thế-Giới khởi, trong chúng-sanh nơi
Trung-Thiên thế-giới nhập trong chúng-sanh nơi Ðại-Thiên thế-giới khởi, trong
chúng-sanh nơi trăm ngàn ức na-do-tha Ðại-Thiên thế-giới nhập trong chúng-sanh
nơi vô-số thế-giới khởi, trong chúng-sanh nơi vô-số thế-giới nhập trong
chúng-sanh nơi vô-lượng thế-giới khởi, nơi chúng-sanh trong vô-lượng thế-giới
nhập trong chúng-sanh nơi vô-biên thế-giới khởi, trong chúng-sanh nơi vô-biên
thế-giới nhập trong chúng-sanh nơi vô-đẳng phật-độ khởi, trong chúng-sanh nơi
vô-đẳng phật-độ nhập trong chúng sanh nơi bất-khả-sổ thế-giới khởi, trong
chúng-sanh nơi bất-khả-sổ thế-giới nhập trong chúng-sanh nơi bất-khả-xưng thế-giới
khởi, trong chúng-sanh nơi bất-khả-xưng thế-giới nhập trong chúng-sanh nơi
bất-khả-tư thế-giới khởi, trong chúng-sanh nơi bất-khả-tư thế-giới nhập trong
chúng-sanh nơi bất-khả-lượng thế-giới khởi, trong chúng-sanh nơi bất-khả-lượng
thế-giới nhập trong chúng-sanh nơi bất-khả-thuyết thế-giới khởi, trong
chúng-sanh nơi bất-khả-thuyết thế-giới nhập trong chúng-sanh nơi bất-khả-thuyết
bất-khả-thuyết thế-giới khởi, trong chúng-sanh nơi bất-khả-thuyết
bất-khả-thuyết thế-giới nhập trong chúng-sanh tạp-nhiễm khởi, trong chúng-sanh
tạp-nhiễm nhập trong chúng-sanh thanh-tịnh khởi, trong chúng-sanh thanh-tịnh
nhập trong chúng-sanh tạp-nhiễm khởi, trong nhãn-xứ nhập trong nhĩ-xứ khởi,
trong nhĩ-xứ nhập trong tỹ-xứ khởi, trong tỹ-xứ nhập trong thiệt-xứ khởi, trong
thiệt-xứ nhập trong thân-xứ khởi, trong thân-xứ nhập trong ý-xứ khởi, trong
ý-xứ nhập trong thân-xứ khởi, trong tự-xứ nhập trong tha-xứ khởi, trong tha-xứ
nhập trong tự-xứ khởi, trong một vi-trần nhập trong vô-số thế-giới vi-trần
khởi, trong vô-số thế-giới vi-trần nhập trong một vi-trần khởi, trong Thanh-Văn
mhập trong Ðộc-Giác khởi, trong Ðộc-Giác nhập trong Thanh-Văn khởi, trong
tự-thân nhập trong Phật-thân khởi, trong Phật-thân nhập trong tự-thân khởi, một
niệm nhập ức kiếp khởi, ức kiếp nhập một niệm khởi, đồng-niệm nhập biệt-thời
khởi, biệt-thời nhập đồng-niệm khởi, tiền-tế nhập hậu-tế khởi, hậu-tế nhập
tiền-tế khởi, tiền-tế nhập trung-tế khởi, trung-tế nhập tiền-tế khởi, tam-thế
nhập sát-na khởi, sát-na nhập tam-thế khởi, chơn-như nhập ngôn thuyết khởi,
ngôn-thuyết nhập chơn-như khởi.
Ví như có người bị quỷ phá thân họ
rung động chẳng tự an được, quỷ chẳng hiện thân mà làm cho thân người kia như
vậy.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát trụ nơi
tam-muội nầy tự-thân nhập định tự-thân khởi.
Ví như tử-thi do chú-lực mà hay chổi
dậy mà đi, cùng làm được các việc. Tử-thi cùng chú dầu đều khác nhau mà có thể
hòa hiệp làm những việc trên.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát trụ nơi
tam-muội nầy, đồng cảnh nhập định dị-cảnh khởi, dị-cảnh nhập định đồng-cảnh
khởi.
Ví như Tỳ-Kheo được tâm tự-tại, hoặc
một thân làm nhiều thân, hoặc nhiều thân làm một thân. Chẳng phải một thân mất
mà nhiều thân sanh, cũng chẳng phải nhiều thân mất mà một thân sanh.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát trụ nơi
tam-muội nầy, một thân nhập định nhiều thân khởi, nhiều thân nhập định một thân
khởi.
Ví như đại-địa đồng một vị mà sanh
cỏ cây có nhiều vị khác nhau. Ðất dầu không khác mà vị có sai khác.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát trụ nơi
tam-muội nầy vẫn vô-phân-biệt, mà có một thứ nhập định nhiều thứ khởi, nhiều
thứ nhập định một thứ khởi.
Chư Phậy-tử ! Ðại Bồ-Tát trụ nơi
tam-muội nầy được mười pháp xưng-tán chỗ ngợi khen. Những là : vì nhập chơn-như
nên gọi là Như-Lai, vì giác-ngộ tất cả pháp nên gọi là Phật, vì được tất cả
thế-gian ngợi khen nên gọi là Pháp-Sư, vì biết tất cả pháp nên gọi là
nhứt-thiết-trí, vì được tất cả thế-gian quy-y nên gọi là chỗ sở-y, vì rõ thấu
tất cả pháp phương-tiện nên gọi là đạo sư, vì dẫn tất cả chúng-sanh vào đạo
nhứt-thiết-trí nên gọi là đại-đạo-sư, vì là đèn của tất cả thế-gian nên gọi là
quang-minh, vì tâm chí viên-mãn, nghĩa lợi thành-tựu, chỗ làm đều xong, trụ trí
vô-ngại, phân-biệt biết rõ tất cả pháp nên gọi là thập-lực tự-tại, vì thông-đạt
tất cả pháp-luân nên gọi là bực nhứt-thiết-kiến.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát trụ nơi
tam-muội nầy lại được mười thứ quang-minh chói sáng. Những là được quang-minh
của tất cả Phật, vì cùng Phật bình-đẳng. Ðược tất cả thế-giới quang-minh, vì có
thể khắp nghiêm-tịnh. Ðược tất cả chúng-sanh quang-minh, vì điều đến điều-phục.
Ðược vô-lượng vô-úy quang-minh vì pháp-giới làm trường thuyết pháp. Ðược
vô-sai-biệt quang-minh, vì biết tất cả pháp không các thứ tánh. Ðược
phương-tiện quang-minh, vì nơi ly-dục-tế của các pháp mà chứng nhập. Ðược
chơn-thiệt quang-minh, vì nơi ly-dục-tế của các pháp tâm bình-đẳng. Ðược
thần-biến quang-minh khắp tất cả thế-gian, vì được Phật gia-hộ hằng chẳng dứt.
Ðược thiện tư-duy quang-minh, vì đến bờ tự-tại của tất cả Phật. Ðược
nhứt-thiết-pháp chơn-như quang-minh vì nơi trong một lỗ chưn lông khéo nói tất
cả.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát trụ nơi tam-muội
nầy được mười thứ vô-sở-tác. Những là thân-nghiệp vô-sở-tác, ngữ-nghiệp
vô-sở-tác, ý-nghiệp vô-sở-tác, thần thông vô-sở-tác, rõ pháp vô-tánh vô-sở-tác,
biết nghiệp chẳng hoại vô-sở-tác, vô-sai-biệt trí vô-sở-tác, vô-sanh-khởi trí
vô-sở-tác, biết pháp không diệt vô-sở-tác, tùy thuận nơi văn chẳng hoại nơi
nghĩa vô-sở-tác.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát trụ nơi
tam-muội nầy, vô-lượng cảnh giới nhiều thứ sai khác. Những là một nhập nhiều
khởi, nhiều nhập một khởi, đồng nhập dị khởi, dị nhập đồng khởi, tế nhập thô
khởi, thô nhập tế khởi, đại nhập tiểu khởi, tiểu nhập đại khởi, thuận nhập
nghịch khởi, nghịch nhập thuận khởi, không thân nhập có thân khởi, có thân nhập
không thân khởi, vô-tướng nhập hữu tướng khởi, hữu tướng nhập vô-tướng khởi, trong
khởi mà nhập, trong nhập mà khởi. Ðây đều là cảnh-giới tự-tại của tam-muội nầy.
Ví nhà huyễn thuật trì chú được
thành có thể hiện các thứ hình tướng sai-biệt. Chú khác với huyễn, mà có thể
làm ra huyễn. Chú chỉ là âm-thanh, mà có thể làm ra các hình sắc cho nhãn-thức
biết, các thứ tiếng cho nhĩ-thức biết, các thứ hương cho tỹ-thức biết, các thứ
vị cho thiệt-thức biết, các thứ xúc cho thân-thức biết, các cảnh giới cho
ý-thức biết.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát trụ nơi
tam-muội nầy, trong đồng nhập định trong dị khởi, trong dị nhập định trong đồng
khởi.
Ví như Ðao-Lợi thiên lúc đánh với
A-Tu-La. Chư Thiên thắng trận. Vua A-Tu-La thân cao lớn bảy trăm do-tuần dùng
sức huyễn thuật đem binh đội trăm ngàn người đồng thời chạy vào trong lỗ cộng
sen để trốn.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát đã khéo
thành-tựu các huyễn trí-địa. Huyễn-trí tức là Bồ-Tát, Bồ-Tát tức là huyễn-trí.
Vì thế nên có thể trong pháp vô-sai-biệt nhập định trong pháp sai-biệt khởi
định. Trong pháp sai-biệt nhập định trong pháp vô-sai-biệt khởi định.
Ví như nhà nông gieo giống trong
ruộng, hột giống ở dưới còn trái sanh ở trên.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát trụ tam-muội
nầy, trong một nhập định trong nhiều khởi, trong nhiều nhập định trong một
khởi.
Ví như xích bạch của nam nữ hòa
hiệp, hoặc có chúng-sanh thọ sanh trong đó, bấy giờ gọi là ca-la-lã. Từ đây
tuần tự ở thai mẹ đủ mười tháng, do sức nghiệp lành nên tất cả chi-phần đều
được thành-tựu, căn thân chẳng thiếu, tâm ý sáng suốt. Ca-la-lã kia với sáu căn
thể trạng khác nhau, do nghiệp lực mà có thể làm cho kia thứ đệ thành-tựu, thọ
các thứ quả báo đồng dị loại.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát từ
nhứt-thiết-trí ngôi ca-la-lã, do sức tín giải nguyện lần lần tăng trưởng, tâm
Bồ-Tát quảng đại nhiệm vận tự-tại. Trong không nhập định trong có khởi, trong
có nhập định trong không khởi.
Ví như long-cung nương đất làm nền
mà chẳng nương hư-không. Rồng ở trong cung chẳng ở hư-không mà có thể nổi mây
đầy khắp hư-không. Có người ngước xem hoặc thấy có cung-điện, phải biết đó là
thành càn-thát-bà chẳng phải long-cung. Dầu rồng ở dưới mà mây nổi trên không.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát trụ tam-muội
nầy nơi vô-tướng nhập nơi hữu-tướng khởi nơi hữu-tướng nhập nơi vô-tướng khởi.
Ví như cung của Diệu-Quang Ðại
Phạm-Thiên-Vương ở tên là nhứt-thiết-thế-gian-tối-thắng-thanh-tịnh-tạng. Trong
cung lớn nầy thấy khắp Ðại-thiên thế-giới : những tứ thiên-hạ, cung của Thiên,
Long bát-bộ, chỗ ở của nhơn-gian và ba ác-đạo, các núi Tu-Di-Sơn vân vân, biển
cả sông lạch, bờ đầm, nguồn suối, thành ấp tụ lạc, rừng cây, các thứ bửu. Những
vật như vậy tột đến đại Luân-Vi, nhẫn đến vi-tế du-trần trong hư-không đều
hiển-hiện trong cung của Ðại-Phạm-Vương, như bóng mặt hiện thấy trong gương
sáng.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát trụ nơi
nhứt-thiết chúng-sanh sai-biệt thân đại tam-muội nầy, biết các thứ cõi nước,
thấy các thứ Phật-độ, các thứ quả chứng, các thứ pháp-thành, các thứ hạnh mãn,
các thứ giải nhập, các thứ tam-muội, khởi các thứ thần-thông, được các thứ
trí-huệ, trụ các thứ sát-na-tế.
Ðại Bồ-Tát nầy đến mười thứ
thần-thông bỉ-ngạn. Những là đến chư Phật tận hư-không biến pháp-giới :
thần-thông bỉ-ngạn. Ðến Bồ-Tát rốt ráo vô-sai-biệt tự-tại thần-thông bỉ-ngạn.
Ðến hay phát khởi bồ-tát quảng đại hạnh nguyện nhập Như-Lai môn phật-sự :
thần-thông bỉ-ngạn. Ðến hay chấn-động tất cả thế-giới tất cả cảnh-giới đều làm
cho thanh-tịnh : thần-thông bỉ-ngạn. Ðến hay tự-tại biết tất cả chúng-sanh
nghiệp quả bất-tư-nghì đều như huyễn hóa : thần-thông bỉ-ngạn. Ðến hay tự-tại
biết các tam-muội thô tế nhập xuất tướng sai biệt : thần-thông bỉ-ngạn. Ðến hay
dũng-mãnh nhập cảnh-giới Như-Lai mà ở trong đó phát-sanh đại-nguyện :
thần-thông bỉ-ngạn. Ðến hay hóa làm Phật, hóa chuyển pháp-luân điều-phục
chúng-sanh, khiến sanh phật chủng, khiến nhập phật-thừa mau được thành-tựu :
thần-thông bỉ-ngạn. Ðến hay rõ biết bất-khả-thuyết tất cả văn cú bí-mật mà
chuyển pháp-luân, khiến trăm ngàn ức na-do-tha bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết
pháp-môn đều được thanh-tịnh : thần-thông bỉ-ngạn. Ðến chẳng nhờ ngày đêm năm
tháng kiếp số, một niệm đều có thể thị-hiện khắp tam thế : thần-thông bỉ-ngạn.
Trên đây là trí thiện-xảo nhứt-thiết
chúng-sanh sai-biệt thân đại tam-muội thứ tám của đại Bồ-Tát.
Chư Phật-tử ! thế nào là pháp-giới
tự-tại tam-muội của đại Bồ-Tát ?
Ðại Bồ-Tát nầy nơi tự nhãn-xứ nhẫn
đến tự ý-xứ nhập tam-muội, nên gọi là pháp-giới tự-tại.
Ðại Bồ-Tát nơi mỗi mỗi lỗ chưn lông
của tự-thân mà nhập tam-muội nầy, tự nhiên biết được các thế-gian, biết các
pháp thế-gian, biết các thế-giới, biết ức na-do-tha thế-giới, biết a-tăng-kỳ
thế-giới, biết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số thế-giới. Trong tất cả
thế-giới thấy có Phật xuất-thế, Bồ-Tát chúng-hội thảy đều đông đủ, quang-ming
thanh-tịnh, thuần thiện không tạp, trang-nghiêm rộng lớn, các thứ châu báu dùng
để ngiêm-sức.
Bồ-Tát trong các thế-giới nầy không
ngớt tu hạnh bồ-tát hoặc một kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, ức kiếp, trăm ngàn ức
na-do-tha kiếp, vô-số kiếp, vô-lượng kiếp, vô-biên kiếp, vô-đẳng kiếp,
bất-khả-sổ kiếp, bất-khả-xưng kiếp, bất-khả-tư kiếp, bất-khả-lượng kiếp,
bất-khả-thuyết kiếp, bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết kiếp, bất-khả-thuyết
bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần số kiếp.
Bồ-Tát lại ở trong vô-lượng kiếp như
vậy mà trụ nơi tam-muội nầy : cũng nhập, cũng khởi, cũng thành-tựu thế-giới,
cũng điều phục chúng-sanh, cũng rõ khắp pháp-giới, cũng biết khắp tam thế, cũng
diễn thuyết các pháp, cũng hiện đại thần-thông các thứ phương-tiện vô-trước
vô-ngại, vì nơi pháp-giới được tự-tại. Khéo phân-biệt nhãn, khéo phân-biệt nhĩ,
tỷ, thiệt, thân, khéo phân-biệt ý. Các thứ sai biệt chẳng đồng như vậy đều khéo
phân-biệt tột ngằn mé.
Bồ-Tát khéo thấy và biết như vậy rồi,
có thể sanh khởi mười ngàn ức đà-la-ni pháp quang-minh, thành-tựu mười ngàn ức
hạnh thanh-tịnh, chứng được mười ngàn ức thiện-căn, viên-mãn mười ngàn ức
thần-thông, hay nhập mười ngàn ức tam-muội, thành-tựu mười ngàn ức thần-lực,
trưởng dưỡng mười ngàn ức công-lực, viên-mãn mười ngàn ức thâm tâm, vận động
mười ngàn ức lực-trì, thị-hiện mười ngàn ức thần-biến, đầy đủ mười ngàn ức
bồ-tát vô-ngại, viên-mãn mười ngàn ức bồ-tát trợ-đạo, chức nhóm mười ngàn ức
bồ-tát tạng, chiếu sáng mười ngàn ức bồ-tát phương-tiện, diễn thuyết mười ngàn
ức các nghĩa, thành-tựu mười ngàn ức các nguyện, xuất sanh mười ngàn ức
hồi-hướng, tịnh tu mười ngàn ức bồ-tát chánh-vị, minh liễu mười ngàn ức
pháp-môn, khai-thị mười ngàn ức diễn-thuyết, tu trị mười ngàn ức bồ-tát thanh-tịnh.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát lại có vô
số công-đức, vô-lượng công-dức, vô-biên công-đức, vô-đẳng công-đức, bất-khả-sổ
công-đức, bất-khả-xưng công-đức, bất-khả-tư công-đức, bất-bất-khả-lượng
công-đức, bất-khả-thuyết công-đức, vô-tận công-đức.
Chư Phật-tử ! Bồ-Tát nầy nơi
công-đức như vậy đều đã làm xong, đều đã chứa nhóm, đều đã trang-nghiêm, đều đã
thanh-tịnh, đều đã suốt thấu, đều đã nhiếp thọ, đều đã xuất sanh, đều đáng khen
ngợi, đều được kiên-cố, đều đã thành-tựu.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát trụ
tam-muội nầy được đông-phương mười ngàn vô-số phật-sát vi-trần-số danh-hiệu chư
Phật nhiếp thọ. Mỗi mỗi danh hiệu Phật nầy lại có mười ngàn vô-số phật-sát
vi-trần-số Phật đều riêng khác. Như đông phương, chín phương kia cũng như vậy.
Chư Phật đó đều hiện ra trước mặt
Bồ-Tát. Vì Bồ-Tát mà hiện cõi thanh-tịnh của chư Phật, vì nói vô-lượng thân của
chư Phật, vì nói nan-tư nhãn của chư Phật, vì nói vô-lượng nhĩ của chư Phật, vì
nói tỹ thanh-tịnh của chư Phật, vì nói thiệt thanh-tịnh của chư Phật, vì nói
tâm vô-trụ của chư Phật, vì nói thần-thông vô-thượng của chư Phật, khiến tu
vô-thượng bồ-đề của Phật, khiến được âm-thanh thanh-tịnh của Phật, khai-thị
pháp-luân bất-thối của Phật, hiển-thị vô-biên chúng-hội của Phật, khiến nhập
vô-biên bí-mật của Phật, tán thán tất cả thiện-căn của Phật, khiến nhập pháp
bình-đẳng của Phật, tuyên nói tam-thế chủng-tánh của Phật, thị-hiện vô-lượng
sắc-tướng của Phật, xiển dương pháp hộ-niệm của Phật, diễn sướng pháp âm
vi-diệu của Phật, biện minh thế-giới của tất cả chư Phật, tuyên dương tam-muội
của tất cả chư Phật, thị-hiện chúng-hội thứ đệ của chư Phật, hộ-trì pháp
bất-tư-nghì của chư Phật, nói tất cả pháp dường như huyễn hóa, thuyết minh
pháp-tánh không động chuyển, khai-thị tất cả pháp-luân vô-thượng, khen ngợi
vô-lượng công-đức của Phật, khiến vào tất cả những mây tam-muội, khiến biết tâm
đó như huyễn như hóa vô-biên vô-tận.
Chư Phật-tử ! Lúc đại Bồ-Tát trụ nơi
pháp-giới tự-tại tam-muội nầy, mười phương kia, mỗi phương đều có mười ngàn
vô-số phật-sát vi-trần số danh-hiệu Như-Lai, trong mỗi mỗi danh-hiệu đều có
mười ngàn vô-số phật-sát vi-trân-số Phật đồng thời hộ-niệm cho Bồ-Tát nầy được
vô-biên thân, cho Bồ-Tát nầy được tâm vô-ngại, cho Bồ-Tát nầy nơi tất cả pháp
được không vong-niệm, cho Bồ-Tát nầy nơi tất cả pháp được huệ quyết-định, cho
Bồ-Tát nầy càng thêm sáng suốt nơi tất cả pháp đều lãnh thọ được, cho Bồ-Tát
nầy nơi tất cả pháp đều có thể hiểu rõ, cho Bồ-Tát nầy các căn mạnh lẹ nơi pháp
thần-thông đều được thiện-xảo, cho Bồ-Tát nầy cảnh-giới vô-ngại đi khắp
pháp-giới hằng chẳng nghỉ, cho Bồ-Tát nầy được trí vô-ngại rốt-ráo thanh-tịnh,
cho Bồ-Tát nầy dùng sức thần-thông trong tất cả thế-giới thị-hiện thành Phật.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát trụ
tam-muội nầy được mười thứ " hải ". Những là được chư Phật-hải, vì
đều xem thấy. Ðược chư pháp-hải, vì hay dùng trí-huệ trọn biết rõ. Ðược
chúng-sanh-hải, vì trọn điều-phục. Ðược chư sát-hải, vì dùng thần-thông vô-tánh
vô-tác đều qua đến. Ðược công-đức-hải, vì tất cả tu hành trọn viên-mãn. Ðược
thần-thông-hải, vì hay rộng thị-hiện khiến khai-ngộ. Ðược chư căn-hải, vì những
căn-tánh chẳng đồng đều khéo biết. Ðược chư tâm-hải, vì biết vô-lượng tâm chủng
loại sai biệt của tất cả chúng-sanh. Ðược chư hạnh-hải, vì hay dùng nguyện-lực
đều viên-mãn. Ðược chư nguyện-hải, vì đều làm cho thành-tựu trọn thanh-tịnh.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát được mười
thứ " hải " rồi, lại được mười thứ thù-thắng : một là trong tất cả
chúng-sanh rất là đệ nhứt. Hai là trong tất cả chư thiên rất là thù-đặc. Ba là
trong tất cả Phạm-Vương rất tột tự-tại. Bốn là nơi các thế-gian không chỗ
nhiễm-trước. Năm là tất cả thế-gian không gì che chói được. Sáu là tất cả các
ma chẳng mê loạn được. Bảy là vào khắp các loài không bị chướng ngại. Tám là
mọi nơi thọ sanh biết chẳng kiên-cố. Chín là tất cả phật-pháp đều được tự-tại.
Mười là tất cả thần-thông đều hay thị-hiện.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát đã được
mười thứ thù-thắng, lại được mười thứ " lực " ở trong chúng-sanh-giới
tu tập các hạnh : một là sức dũng-kiện, vì điều-phục thế-gian. Hai là sức
tinh-tấn, vì hằng chẳng thối-chuyển. Ba là sức vô-trước, vì lìa các cấu nhiễm.
Bốn là sức tịch-tịnh, vì không tránh luận nơi tất cả pháp. Năm là sức nghịch
thuận, vì nơi tất cả pháp tâm tự-tại. Sáu là sức pháp-tánh, vì trong các nghĩa
được tự-tại. Bảy là sức vô-ngại vì trí-huệ quảng-đại. Tám là sức vô-úy vì khéo
thuyết-pháp. Chín là sức biện-tài, vì khéo thọ-trì các pháp. Mười là sức
khai-thị, vì trí-huệ vô-biên.
Chư Phật-tử ! Mười thứ " lực
" nầy là sức quảng-đại, sức tối-thắng, sức không ai xô dẹp được, sức
vô-lượng, sức khéo chứa nhóm, sức bất-động, sức kiên-cố, sức trí-huệ, sức
thành-tựu, sức thắng-định, sức thanh-tịnh, sức rất thanh-tịnh, sức pháp-thân,
sức pháp quang-minh, sức pháp-đăng, sức pháp-môn, sức không bị phá hoại, sức
rất dũng-mãnh, sức đại trượng-phu, sức thiện-tượng-phu tu tập, sức thành
chánh-giác, sức quá-khứ chứa nhóm thiện-căn, sức an-trụ vô-lượng thiện-căn, sức
trụ Như-Lai lực, sức tâm tư-duy, sức tăng-trưởng Bồ-Tát hoan-hỷ, sức xuất sanh
Bồ-Tát tịnh-tín, sức tăng-trưởng Bồ-Tát dũng-mãnh, sức do Bồ-Ðề tâm sanh, sức
Bồ-Tát thanh-tịnh thâm-tâm, sức Bồ-Tát thù-thắng thâm-tâm, sức Bồ-Tát thiện-căn
huân-tập, sức cựu-cánh các pháp, sức thân vô-ngại, sức nhập pháp-môn
phương-tiện thiện-xảo, sức diệu-pháp thanh-tịnh, sức an-trụ thế-lực lớn tất cả
thế-gian chẳng khuynh động được, sức tất cả chúng-sanh không ai che chói được.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát nầy nơi
vô-lượng pháp công-đức như vậy, hay thành-tựu, hay viên-mãn, hay chiếu minh,
hay cụ túc, hay khắp cụ-túc, hay quảng-đại, hay kiên-cố, hay tăng-trưởng, hay
tịnh-trị, hay khắp tịnh-trị.
Về những công-đức biên-tế, trí-huệ
biên-tế, tu hành biên-tế, pháp-môn biên-tế, tự-tại biên-tế, khổ-hạnh biên-tế,
thành-tựu biên-tế, thanh-tịnh biên-tế, xuất-ly biên-tế, pháp tự-tại biên-tế của
đại Bồ-Tát nầy không ai có thể nói được.
Bồ-Tát nầy chỗ chứng đắc, chỗ
thành-tựu, chỗ xu nhập, chỗ hiện tiền, chỗ có cảnh-giới, chỗ có quan-sát, chỗ
có chứng nhập, chỗ có thanh-tịnh, chỗ có liễu-tri, chỗ có kiến lập tất cả
pháp-môn, trong bất-khả-thuyết kiếp không thể nói hết được.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát trụ nơi
tam-muội nầy có thể rõ biết vô-số vô-lượng vô-biên vô-đẳng bất-khả-sổ
bất-khả-xưng bất-khả-tư bất-khả-lượng bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết
bất-khả-thuyết tất cả tam-muội. Cảnh giới của mỗi mỗi tam-muội đó quảng-đại
vô-lượng. Trong cảnh-giới đó hoặc nhập, hoặc xuất, hoặc trụ, chỗ có
tướng-trạng, chỗ có thị-hiện, chỗ có hành-xứ, chỗ có đẳng-lưu, chỗ có
tự-tánh,chỗ có trừ-diệt, chỗ có xuất-ly, tất cả như vậy đều thấy rõ cả.
Ví như cung của đại Long-Vương nơi
ao A-Nậu-Ðạt chảy ra thành bốn con sông lớn, không đục, không tạp, không
cấu-uế, màu sắc thanh-tịnh dường như hư-không. Bốn mặt ao, mỗi phía có một cửa
sông, chảy ra thành bốn con sông. Nơi cửa Tượng-Khẩu chảy ra thành sông Hằng-Già.
Nơi cửa Sư-Tử-Khẩu chảy ra thành sông Tư-Ðà. Nơi
cửa Ngưu-Khẩu chảy ra thành sông
Tín-Ðộ. Nơi cửa Mã-Khẩu chảy ra thành sông Phược-Sô. Nơi cửa sông Hằng-Già chảy
ra cát bạc. Cửa sông Tư-Ðà chảy ra cát kim-cương. Cửa sông Tín-Ðộ chảy ra cát
vàng. Cửa sông Phược-Sô chảy ra cát lưu-ly. Cửa sông Hằng-Già màu bạc. Cửa sông
Tư-Ðà màu kim-cương. Cửa sông Tín-Ðộ màu vàng. Cửa sông Phược-Sô màu lưu-ly.
Mỗi cửa sông rộng một do-tuần.
Nước nơi bốn cửa sông chảy quanh ao
A-Nậu-Ðạt bảy vòng rồi theo phương vị mà chảy ra bốn phía, nổi sóng cuồn-cuộn
chảy thẳng ra biển.
Nơi dòng nước của bốn sông chảy
quanh ao, có thiên-bửu hiệp thành bốn thứ hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng, hương
thơm lạ lùng ngào-ngạt, diệu-sắc thanh-tịnh. Những cánh hoa, những đài nhụy đều
là các thứ báu tự-nhiên chói suốt, đều phóng ánh sáng chiếu hiện lẫn nhau.
Ao A-Nậu-Ðạt chu-vi rộng lớn năm
mươi do-tuần, những cát báu trải khắp đáy ao, nghiêm-sức với những châu ma-ni,
bờ ao trang-nghiêm bằng vô-lượng diệu-bửu, diệu-hương chiên-đàn rải khắp trong
đó. Bốn thứ hoa sen và các hoa báu khác đều có khắp ao. Gió thoảng đưa
hương-khí đi xa. Rừng hoa cây báu bao quanh ao. Lúc
mặt nhựt mọc thảy đều chiếu sáng. Ao
và sông cùng tất cả vật chiếu chói lẫn nhau thành lưới quang-minh. Các vật nầy,
hoặc xa, hoặc gần, hoặc cao, hoặc thấp, hoặc rộng, hoặc hẹp, hoặc thô, hoặc tế,
nhẫn đến rất nhỏ như một hột cát, một hột bụi đều là diệu-bửu quang-minh chói
sáng. Tất cả vật đều có hiện bóng mặt nhựt. Các vật nầy cũng hiện bóng lẫn
nhau. Các bóng ấy không thêm không bớt, chẳng phải hiệp, chẳng phải tan, đều
như bổn chất mà được thấy rõ.
Chư Phật-tử ! Như ao A-Nậu-Ðạt, nơi
bốn cửa chảy ra bốn con sông, thẳng vào biển.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát từ tứ biện-tài
phát sanh các hạnh rốt ráo vào nơi biển nhứt-thiết-trí.
Như sông Hằng-Già từ Tượng-Khẩu màu
bạc chảy ra cát bạc.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát dùng nghĩa
biện-tài thuyết tất cả nghĩa-môn của đức Như-lai đã nói, xuất sanh tất cả
bạch-pháp thanh-tịnh rốt ráo vào nơi biển trí vô-ngại.
Như sông Tư-Ðà từ Sư-Tử-Khẩu màu
kim-cương chảy ra cát kim-cương.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát dùng pháp
biện-tài vì tất cả chúng-sanh mà nói câu kim-cương dẫn ra trí kim-cương rốt ráo
vào nơi biển trí vô-ngại.
Như sông Tín-Ðộ từ Ngưu-Khẩu màu
vàng chảy ra cát vàng.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát dùng huấn-từ biện-tài
thuyết duyên-khởi phương-tiện tùy thuận thế-gian, khai-ngộ chúng-sanh khiến đều
hoan-hỉ điều-phục thành-thục, rốt ráo vào nơi biển duyên-khởi phương-tiện.
Như sông Phược-Sô từ Mả-Khẩu màu
lưu-ly chảy ra cát lưu-ly.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát dùng vô-tận
biện-tài mưa trăm ngàn ức na-do-tha bất-khả-thuyết diệu-pháp, làm cho người
nghe đều được gội nhuần rốt ráo vào nơi biển phật-pháp.
Như bốn con sông chảy quanh ao
A-Nậu-Ðạt rồi đều theo phương-vị chảy thẳng ra biển.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát thành-tựu tùy thuận
thân-nghiệp,khẩu-nghiệp, ý-nghiệp. Thành-tựu trí làm tiền-đạo cho thân-nghiệp,
ngữ-nghiệp, ý-nghiệp. Tuôn khắp bốn phương rốt ráo vào nơi biển nhứt-thiết-trí.