Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lược ý hình tượng Khổng Tước Minh Vương và Đàn Thành trong Đông Mật Phật Giáo Bắc Truyền

29 Tháng Chín 201100:00(Xem: 14817)
Lược ý hình tượng Khổng Tước Minh Vương và Đàn Thành trong Đông Mật Phật Giáo Bắc Truyền

LƯỢC Ý HÌNH TƯỢNG
KHỔNG TƯỚC MINH VƯƠNG và ĐÀN THÀNH
trong Đông Mật Phật Giáo Bắc Truyền

Thích Tâm Mãn

Đàn Thành Khổng Tước Minh Vương là một trong những đàn thành nổi tiếng linh hiển nhất của Đông Mật, được rất nhiều Triều Đình và dân chúng các nước Đông Phương dùng vào trong các pháp hội đàn tràng Hộ Quốc, tiêu tai, cầu mưa, trừ ôn dịch, cầu bình an tăng phước thọ, tiêu bịnh tật.v.v...

blank

Đàn Thành Khổng Tước Minh Vương có nguồn gốc từ Mật Giáo Ấn Độ, Kinh Khổng Tước Minh Vương Chú được truyền vào rất sớm ở phương Đông. Đến đời Đường, Mật Giáo thịnh hành, Ngài Bất Không Tam Tạng dịch bộ “Khổng Tước Minh Vương Họa Tượng Đàn Trường Nghi Quỹ”, và từ đây đàn thành của Mật Giáo tu trì Khổng Tước Minh Vương được thiết lập.

Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội, còn là nơi tu trì của các hành giả Mật Giáo, hành giả trụ trong đàn thành, trì tụng thần chú “Khổng Tước Minh Vương” và được sự gia trì của chư Phật, Bồ Tát, Thinh Văn, Thiên chúng trong đàn thành, nhân đó hành giảthể đạt được đại tự tại tâm, thành tựu hết thảy nguyện lực, thành tựu đạo Bồ Đề, để phổ độ chúng sanh.

Hành giả Tu Pháp Khổng Tước Minh Vương, có thể nương vào pháp lực của Khổng Tước Mimh Vương ứng hiện trong đàn thành, thể nhập vào Tam thân, tu pháp xuất thế gian, diệt trừ tham, sân, si, mạn, nghi trong tự tâm của chính mình, đạt đến đại an lạc, không còn bị các nghiệp chướng phiền não làm tổn hại nữa, từ đó chứng được viên mãn trí huệ, giác ngộ, từ bi và nhanh chóng đạt đến quả vị Vô thượng Bồ đề.

Trong các pháp hội đàn thành, tu trì quyền đảnh của Mật Giáo, tùy theo tôn tượng được tôn trí trong đàn thành, để theo nghi quỹ mật pháp của Bổn Tôn mà tu trì, nếu như trong đàn thành, tôn thánh tượng Khổng Tước Minh Vương làm đàn chủ, thì phải quy y theo pháp của Ngài để tu trì, vậy nên pháp của đàn thành này, được xưng là Khổng Tước Minh Vương Kinh Pháp hoặc là Khổng Tước Kinh Pháp, còn đàn thành được gọi là Khổng Tước Minh Vương Đàn Thành, đây là một trong tứ đại Pháp và Đàn Thành của Mật Giáo.

Khổng Tước Minh Vương, tiếng Phạm xưng là Maha-mayura-vidi-rajni, phiên âm là Ma Ha Ma Du Lợi Du La Diêm, dịch là Phật Mẫu Khổng Tước Minh Vương. Theo truyền thuyết Khổng Tước Minh Vương là lưu thân của Đức Phật Tỳ Lô Giá Na và Đức Phât Thích Ca, là hóa thân của Đức Phật A Di Đà. Mật Giáo tôn xưng là Kim Cang Phật Mẫu hoặc là Hộ Thế Kim Cang.

Căn cứ theo Kinh Khổng Tước Minh Vương chép: “Một thuở nọ, Đức Phật tại thế, có một vị Tỳ Kheo bị rắn độc cắn, đau đớn không thể chịu được. Bấy giờ ngài A Nan đem việc này bạch với Phật. Phật bèn nói một câu thần chú, có thể trừ diệt những sự đau khổ chướng ngại, quỷ mị, độc hại, ác tật… bài chú này là Khổng Tước Minh Vương Chú”. 

Ngoài ra trong Kinh còn chép về chuyện Đức Phật dạy về tiền kiếp của Ngài khi hành Bồ Tát đạo có một kiếp Ngài là Khổng Tước: “vào thời rất xa xưa ở trong núi tuyết có con chim Khổng Tước lông màu vàng kim, thường ngày thanh tịnh trì tụng bài chú này rất là siêng năng tinh tấn, vì vậy luôn luôn được thần chú bảo hộ bình yên an ổn, không ai có thể săn bắt nó được.

Một hôm Khổng Tướctham mê ái dục, cùng với rất nhiều con chim khổng tước mái đi dạo chơi ở một khu rừng núi rất xa, mãi vui chơi nên Khổng Tước quên mất trì chú, vì vậy mà bị thợ săn bắt được, lúc bị bắthồi phục được chánh niệm, liền trì tụng thần chú, cuối cùng thì thoát khỏi được sự vây bắt của thợ săn, được tự do bay về núi của mình...”. Đây là điển tích do Đức Phật khai thị để cho chúng ta biết sự có mặt của Khổng Tước Minh Vươngthần chú Khổng Tước Minh Vương Đà La Ni.

blank

Khổng Tước Minh Vương được dự vào hàng đại thánh của Mật Giáo, có rất nhiều truyền thuyết. Chuyện xưa kể rằng, Khổng Tước Minh Vương vốn là con Khổng Tước đầu tiên của thời khai thiên lập địa, qua suốt mấy ngàn năm ngày đêm tu hành khổ luyện thành tựu phép Ngũ sắc thần quang, sau đó được Ngài Chuẩn Đề Bồ Tát hóa độ, Khổng Tước phát nguyện theo Bồ Tát Chuẩn Đề tu hành và làm bảo tọa cho Ngài ngồi, để đền đáp công ơn hóa độ.

Khổng Tước Minh Vương được xưng là Phật Mẫu, Truyền thuyết Mật Giáo kể rằng, khi Đức Phật Thích Ca đắc đạo, Khổng Tước nuốt Đức Phật vào trong bụng, sau đó lưng của Khổng Tước Minh Vương nứt ra, Đức Phật Thích Ca hiện ra ngồi trên lưng của Khổng Tước, vết nứt liền lại, vì vậy Khổng Tước được xưng là Phật Mẫu Đại Khổng Tước Minh Vương Bồ Tát.

Bảo tướng của Khổng Tước Minh Minh Vương trong Mật Giáo, thường hiện thân một vị Bồ Tát có bốn tay, ngồi trên lưng của con chim Khổng Tước (con Công) vì vậy nên gọi là Khổng Tước Minh Vương, gọi đủ theo Minh Vương bộ của Mật GiáoPhật Mẫu Đại Kim Cang Diệu Khổng Tước Minh Vương.

Hình Tượng của Khổng Tước Minh Vương Bồ Tát, trong bốn tay của Bồ Tát có trì bốn pháp bảo gồm có, Liên hoa, Cụ duyên quả, Cát tường quả, Lông chim Khổng Tước. “Liên hoa” tượng trưng cho kính ái, “Cụ duyên quả” tượng trưng cho sự điều phục, “Cát tường quả” tượng trưng cho sự tăng ích lợi, “lông chim Khổng Tước” tượng trưng cho sự trừ tai ách, diệt khổ nạn.

Tượng Bồ Tát Khổng Tước còn một thân tướng nữa, thường được tôn trí trong Đàn thành Thai Tạng Giáo, Mạn Đà La. Trong Đàn Thành Mạn Đà La, Bổn tôn Khổng Tước Minh Vương Bồ Tát là lưu thân của Đức Phật Tỳ Lô Giá Na, nên nhiếp thọcụ túc hai đức từ bitrí tuệ, Tôn tượng Bồ Tát thường ngồi trên hai loại tòa hoa sen, nếu là ngồi trên hoa sen trắng tức biểu thị cho cho sự nhiếp thu bổn thệ từ bi, ngồi trên hoa sen xanh, là biểu thị ý tướng hàng phục.

Trong Tô Tất Địa Viện của Thai Tạng Giới Mạn Đà La, Bổn tôn Khổng Tước Minh Vương là vị Bồ Tát thứ 6, hình tướng của Bồ Tát trong nội viện này, thân chỉ có hai tay, trì liên hoa và lông chim Khổng Tước, ngồi hoa sen màu đỏ, xưng là Phật Mẫu Kim Cang Tam Muội Da Hình Khổng Tước Vũ. 

Kinh điển nói về Khổng Tước Minh Vương, hiện nay trong Đại Tạng Kinh của Phật Giáo có lưu tạng “Kinh Khổng Tước Minh Vương Chú” gồm có 6 bộ.

1. Bộ “Khổng Tước Vương Chú Kinh”: một quyển, do Ngài Cưu Ma La Thập dịch

2. Bộ “Kim Sắc Khổng Tước Minh Vương Kinh Chú Kinh”: không có tên người dịch

3. Bộ “Phật Thuyết Đại Kim Sắc Khổng Tước Minh Vương Chú Kinh”: không có tên người dịch

4. Bộ “Khổng Tước Vương Chú Kinh”: do ngài Tăng Dà Bà La dịch có hai quyển.

5. Bộ “Phật Thuyết Đại Khổng Tước Vương Chú Kinh”: do ngài Nghĩa Tịnh dịch có ba quyển.

6. Bộ “Phật Mẫu Đại Khổng Tước Minh Vương Kinh”: do ngài Bất Không dịch có ba quyển.

blank

Đàn Thành Khổng Tước Minh Vương được thiết trí theo “Kinh Khổng Tước Minh Vương Họa Tượng Đàn Trường Nghi Quỹ” do Ngài Bất Không Tam Tạng Tổ của Đông Độ Mật Giáo đời Đường dịch. Trong đàn thành gồm có ba Đàn Thành.

Đàn Thành thứ nhất: Nội viện Khổng Tước Minh Vương Bồ Tát, Bát diệp liên hoa mạn đà la, Nội viện của Phật Bồ Tát, Bích Chi Phật, Nội Viện của Thanh Văn La Hán. Chư Phật Bồ Tát được an trí trong Đàn thành Khổng Tước Minh Vương gồm có, Thất Phật quá khứ, Bồ Tát Di Lặc, mười hai vị Duyên Giác đại vị cho chư Duyên Giác, 18 vị La Hán đại vị cho chư Thanh Văn, bên dưới chính giữa, an trí tại trung ương đàn thành là bảo tượng Khổng Tước Minh Vương bằng tranh vẽ hay là tượng hoặc giả an trí một chiếc lông Khổng Tước

Đại Khổng Tước Minh Vươngthân tướng lưu lại của Đức Phật Tỳ Lô Giá Na, để độ chúng hữu tình, là thân tướng tối thắng nhất của tất cả các thân tướng, cho nên vị trí đặt ở trung ương, cũng giống như đàn thành Ngũ Phật, Đức Tỳ Lô Giá Na được tôn trí tại Trung ương, trong Đàn Thành này Khổng Tước Minh VươngPháp chủ cho nên vị trí tôn trung ương đàn thành.

Đàn Thành thứ hai gồm có tám phương Thiên Vương và chư quyến thuộc.

1. Đông Phương Đế Thích Thiênchư Thiên chúng vây quanh.

2. Đông Nam phương Hỏa Thiênchư Tiên ngũ thông khổ hạnh vây quanh.

3. Nam phương Diệm ma Thiên Vương và Diêm ma giới, các loài quỷ chúng vây quanh.

4. Tây Nam phương La Sát Vương và chúng quỷ la sát vây quanh.

5. Tây phương Thủy Thiên và các vị Rồng vây quanh.

6. Tây Bắc phương Phong Thiên Vương và chư tiên nhân Trì Minh vây quanh.

7. Bắc phương Đa Văn Thiên Vương cùng các chúng Dạ Xoa vây quanh.

8. Đông Bắc phương Y Xá Na Thiên cùng các bộ đa quỷ chúng vây quanh.

Chư Thiên, chư Tiên, Thiên tướng, thiên cung chư vị thiện thần, vây quanh Đàn Thành. Tám vị Thiên Vương đại vị cho chư Thiên, 28 vị Dạ Xoa đại vị cho chư Thần tướng, Cửu Diệu tinh tọa đại vị Thiên chúng, 12 Cung đại vị cho hết thảy Thiên ty, Thiên sở, nội ngoại Thiên cung. Nếu như không cụ túc các tượng pháp để an trí trong đàn thì cần phải dùng bài vị giấy để ghi tên của tất cả những vị không đủ thần tượng, cũng như chư vị quyến thuộc của Khổng Tước Minh Vương, tôn trí lên đàn như đã quy định, thì đàn thành mới cụ túc phước duyên thần lực.

Đàn Thành thứ ba là vòng thành ngoài cùng của đàn thành từ phía Đông Bắc vòng một vòng theo tay phải, tôn trí tượng 28 vị Dược Xoa Đại Tướng, và các quỉ chúng vây quanh.

Đàn thành tôn trí nhiều tượng Phật, Bồ Tát, Thánh chúngnhân duyên thể hiện tánh của “Chư Phật Hải Hội” để chúng hội quy y Tam Bảo, theo tâm pháp của Mật Giáo, quy y một vị Phật tức là quy y vô lượng chư Phật. Quy y Khổng Tước Minh Vương tức là quy y Đức Phật Tỳ Lô Giá Na, quy y Đức Phật A Di Đà, quy y Đức Phật Thích Ca, quy y vô lượng Chư Phật.

Đàn thành Khổng Tước Minh Vương là nơi để hành giả làm Pháp quán đảnh, quy y, cho nên phải cụ túc chư Phật, Bồ TátThiên Thần. Pháp hội Khổng Tước Minh Vương gồm có bốn pháp quy y. Pháp thứ nhất quy y Truyền Pháp Thượng Sư, Pháp thứ hai Quy y Phật tức là quy y Đại Khổng Tước Minh Vương Phật. Pháp thứ ba là quy y Kinh Khổng Tước Minh Vương, pháp thứ tư quy y Tăng, quy y hết thảy quyến thuộc Khổng Tước Minh Vương.

Tâm niệm “Sát sát trần trần Hoa Tạng Giới”, nếu như một vị Phật giải chưa hết các định nghiệp, thì công đức của nhiều vị Phật, Bồ tát, Thánh chúng, sẽ hợp thành sức mạnh “Đại quang minh tạng”, thì sẽ không có nghiệp lực, định nghiệp nào mà không thể không tiêu trừ, không thể không giải hết, cũng ví như xưa kia Phật dạy Ngài Mục Kiền Liên dùng pháp môn cúng dường đại Tăng, nhờ thần lực của đại Tăng cứu mẹ không khác.

blank

Hết thảy thần tướng Thiên vương trong đàn thành đều là hóa thân của Khổng Tước Minh Vương. Bồ Tát nương theo tinh thầnthệ nguyện của Kinh A Di Đà, có đoạn trong Kinh A Di Đà nói về thế giới Cực Lạcvô số các loại chim báu thuyết pháp, trong số các loại thánh điểu do Đức Phật Di Đà biến hóa ra, để nói pháp độ sanh, trong đó có chim Khổng Tước, vì vậy Đức Khổng Tước Minh Vươnghóa thân của Đức Di Đà, cho nên Ngài cụ túc tánh Vô Lượng Quang, Vô Lượng thọ, Vô lượng Công đức, nên Đàn Thành của Ngài cũng là cảnh Giới Cực Lạc trang nghiêm thanh tịnh. Chính vì vậycông năng và đức lực chuyển hóa hết thảy ác nghiệp, thành tựu hết thảy công đức.

Khổng Tước Minh Vương còn là Thọ dụng thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, trong thuở quá khứ, khi Đức Phật hành Bồ Tát Đạo có một kiếp Ngài là Khổng Tước, vậy nên Khổng Tước Minh Vương cụ túc tánh, Thọ dụng thân của Đức Thích Ca, Đức Phật Thích Ca lại là Giáo chủ cõi Ta Bà, vậy nên Khổng Tước Minh Vương rất có duyên với chúng sanhcõi Ta Bà.

Khổng Tước Minh Vương là Lưu thân của Đức Phật Tỳ Lô Giá Na, là Hóa thân của Đức Phật A Di Đà, lại là Thọ dụng thân của Đức Phật Thích Ca, cho nên thiết lập Đàn Thành tu trì Pháp Khổng Tước Minh Vương, là tập hợp tương ưng hết thảy oai đức, phước báu, thần lực của ba vị Phật và vô lượng Chư Phật, để làm năng lượng chuyển hóa nghiệp lực, thành tựu hết thảy các thắng duyêncông đức.

Hành giả kiến đàn thành tu trì Pháp Khổng Tước Minh Vương, nên dùng pháp tương ưng của tam thân PhậtPháp Thân, Báo Thân, Ứng Hóa Thân, thể nhập dung hòa vào tự tánh của ba nghiệp của chính mình, tạo thành tam oai đức: Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi. Dùng phước báo, nguyện lực, oai đức của Tam thân chuyển hóa ba nghiệp thành Giới Định Huệ, nhân “Giới” nên Thân thường thanh tịnh, chứng Vô thượng đạo, nhân “Định” nên Khẩu thường thanh tịnh, chứng Vô thượng đạo, nhân “Huệ” nên Ý thường thanh tịnh chứng Vô thượng đạo. Tam thân cụ túc, Tam mật tương ưng.

Người hành trì nếu có thể tương ưng như vậy, thì tự thân có thể nhập được vào thể tánh của Đại Khổng Tước Minh Vương, cụ túc thần lực gia trì cho tự thân, đồng thời có thể gia trì cho chúng sanh, chuyển hết các nghiệp ác thành đại an lạc, chuyển hết các khổ đau thành đại hoan hỷ, chuyển hết các bịnh khổ thành đại an khang, tất cả các nghiệp lực đều có thể nương đây mà tiêu trừ, tất cả các oan khiên đều từ Đàn Thành này mà được giải kết.

Khổng Tước Minh Vương Bồ Tát, Pháp tu và Đàn Thành của Ngài, là Pháp tối thắng nhất đối với các hành giả tu trì Mật Tông, là phương tiện cứu độ, giải trừ tai ách khổ nạn, tứ phước an lạc với tất cả những tín chúng có nhân duyên với Mật Giáo, là cầu nối của Chư Phật, Bồ Tát, Thánh chúng với chúng sanh, là sự thể nhập vi diệu nhất của Tam Thân vào trong Tam mật, của Hóa Thân vào Ứngng Thân, của trần gian vào cỏi Thánh “Diệu Nhập Tam Ma Địa”, nguyện Phật Pháp trường tồn, chúng sanh an lạc, Bồ Tát Khổng Tước Minh Vương trụ thế ứng hiện chân thân, phổ độ chúng hữu tình, miễn tai giải ách, an lạc tự tại, đất nước hưng thạnh, thiên hạ thái bình, phong điều vũ thuận.

Nam mô Đại Khổng Tước Minh Vương Phật Mẫu Bồ Tát Ma Ha Tát

Chùa Minh Thành - www.chuaminhthanh.com - www.minhthanhtu.com - Biên tập: ĐĐ. Thích Minh Thông.
Địa chỉ: 348 - Nguyễn Viết Xuân - Phường Hội Phú - Thành Phố Pleiku - Tỉnh Gia Lai - Việt Nam

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 294)
Ta sinh ra tại thung lũng thượng Dra ở Yoru, là con trai của Lobpon Tenpa Sung và Droza Sonam Gyen. Từ thuở nhỏ,
(Xem: 290)
Kính lễ đạo sư vinh quang, vị Thánh Tôn, Đấng viên thành mong ước thù thắng
(Xem: 391)
Trong chuyến viếng thăm ngắn đến Hà Lan, Rinpoche được mời đến giảng dạy một tối về truyền thống Kim Cương thừa
(Xem: 758)
(1) Kính lễ bậc Chúa Tể (dòng họ) Thích Ca. Thân Ngài đản sanh từ vô lượng công đức, tướng hảo thù thắng. Lời Ngài làm thỏa mãn hy vọng của vô lượng chúng sanh.
(Xem: 757)
Trước khi chuyển di thần thức của người đã khuất, hãy bắt đầu bằng cách gọi tên họ số lần thích hợp.
(Xem: 866)
Nhìn chung, điều được gọi là Tâm Yếu Bốn Phần chủ yếu bao gồm những giáo lý của Tôn giả Vimalamitra [Vô Cấu Hữu],
(Xem: 842)
Khai thị của Kyabje Lama Zopa Rinpoche về tánh Không (shunyata) trong lễ quy y tại Trung Tâm Phật Giáo A Di Đà
(Xem: 1135)
Hãy đảm bảo rằng, trước khi tôi bắt đầu, các bạn phát khởi động cơ Bồ đề tâm thù thắng, tâm giác ngộ quý báu.
(Xem: 1368)
Tobgyal Rinpoche[1] được thỉnh cầu nói về các Bardo (những trạng thái chuyển tiếp), một nét đặc trưng độc đáo của giáo lý Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 1156)
Hãy phát khởi động lựchành vi đúng đắn, nghĩ rằng tôi phải tạo lợi lạc cho tất cả chúng sanh bao la như không gian,
(Xem: 2459)
Tôn giả Longchen Rabjam (1308-1363) sinh ra ở Yoru thuộc phần phía Đông của miền Trung Tây Tạng, gần Tu viện Samye vĩ đại mà Đạo Sư Liên Hoa Sinh xây dựng vào thế kỷ tám.
(Xem: 1847)
Có nhiều vị Tôn trên thế gian này và Phổ Ba Kim Cương là một trong số đó. Thực hành về Ngài được biết đến là “thực hành Phổ Ba Kim Cương để ...
(Xem: 3547)
Từ năm lên ba, Lama Drimed Rinpoche đã bày tỏ niềm tin và sự yêu thích đáng kinh ngạc với Phật Pháp.
(Xem: 1673)
Đức Shechen Rabjam thứ nhất – Tenpe Gyaltsen sinh năm 1650, năm Kim Dần của chu kỳ sáu mươi năm thứ mười một.
(Xem: 2612)
Geshe Ngawang Dhargyey (1921-1995) sinh ra ở vùng Trehor thuộc Kham, phía đông của Tây Tạng và học ở Tu viện Dhargyey địa phương cho đến khi 18 tuổi.
(Xem: 2380)
Này Tashi Lhamo[2] thành kính, nếu con muốn đạt giác ngộ, Hãy suy nghĩ xem thật khó khăn làm sao mới có được thân người tự dothuận duyên này.
(Xem: 2037)
Nhìn chung, chúng ta có thể nói rằng có hai phần trong truyền thừa Barom Kagyu: truyền thừa truyền miệng dài và truyền thừa ngắn của linh kiến sâu xa.
(Xem: 2987)
Khi cặp vợ chồng từ tộc Drenka ở Penyul trở thành cha mẹ tự hào của một người contrai vào năm 1127, họ đặt tên cậu bé theo một Kinh điển:
(Xem: 2078)
Ngài Drapa Ngonshe sinh vào năm Thủy Tý đực (tức năm 1012 Dương lịch) với cha là ông Zhangtag Karwa, người đã đặt tên Ngài là Taktsab.
(Xem: 2410)
Ngài Phakmodrupa Dorje Gyalpo sinh năm 1110 và được nuôi dưỡng bởi cha mẹ nghèo khó ở phía Nam của Kham.
(Xem: 1845)
Từ quan điểm chiêm tinh, tháng Thân linh thiêng tương ứng với tháng 5 Âm lịch Tây Tạng. Ngài Terdak Lingpa[3], em trai[4] và Đức Dalai Lama thứ Năm ...
(Xem: 1736)
Theo các tiểu sử, Bà Mandarava là một công chúa thông tuệ, thiện lành và xinh đẹp, sinh ra trong một gia đình hoàng gia ở Zahor,
(Xem: 2468)
Khandro Tare Lhamo sinh năm Thổ Dần 1938 trong thung lũng Bokyi Yumolung của vùng du mục Golok.
(Xem: 1539)
Sera Khandro Kunzang Dekyong Wangmo sinh ra trong một gia đình giàu có, quyền lực về chính trị ở Lhasa.
(Xem: 2844)
Bà Jetsun Jampa Chokyi sinh vào ngày 30 tháng 12 năm Thủy Tuất (1922). Cha Bà, Sonam Tobgyal, xuất thân từ gia đình...
(Xem: 1900)
Dưới chân đạo sư, con đỉnh lễ. Nhớ về vô thường và cái chết, Đẩy lui bám chấp với đời này và trưởng dưỡng xả ly –
(Xem: 3817)
Đức Riwoche Jedrung thứ bảy – Jampa Jungne sinh năm 1856 trong gia đình Shol Danak của Tu viện Riwoche ở Kham,
(Xem: 2146)
Sau đây là ảnh hưởng từ hành vi của bạn tốt: Đồng hành cùng vị uyên bác giúp tăng trưởng sự thông tuệ. Đồng hành cùng vị bi mẫn giúp đánh thức Bồ đề tâm.
(Xem: 1980)
Thân người tự dothuận duyên này mà con đã có được. Cung cấp nền tảng để đạt được hỷ lạc vĩnh cửu.
(Xem: 2539)
Từng có một học trò, người đến gặp đạo sư để thỉnh cầu chỉ dẫn. Vị đạo sư sắp rời đi và đang vội nhưng Ngài vẫn chấp nhận lời thỉnh cầu.
(Xem: 4518)
Bản văn này được Orgyen Tobgyal Rinpoche mạnh mẽ khuyến khích với những vị mong muốn làm sâu sắc sự hiểu của họ về thực hành Sur[1].
(Xem: 1949)
Đầu tiên trong sáu ba la mật, bố thí ba la mật, không phải chỉ là về trao cho người nghèo.
(Xem: 2843)
Nhìn chung, những điểm then chốt để thấu triệt giáo lý của Phật là: Được thúc đẩy bởi sự xả ly và Bồ đề tâm, Tránh ác hạnhnỗ lực làm các thiện hạnh,
(Xem: 1668)
Đầu tiên, bởi thân người này – sự hỗ trợ cho các phẩm tính của giải thoát – khó được, chúng ta phải hướng các ý nghĩ rời khỏi những vấn đề của đời này.
(Xem: 2570)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 2653)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 2054)
Liều thuốc giải cho ảo tưởng, bản ngã và từng vấn đề khác mà chúng ta đối mặt là trí huệ của Pháp;
(Xem: 3635)
Khi bắt đầu thiền định, một trong những cách thức để tăng trưởng Bồ đề tâmlòng bi mẫnthực hành cho và nhận
(Xem: 3094)
Thực hành chính yếu mà thầy tiến hành trong tù ngục là Tong-len (cho và nhận). Khenpo Munsel[1] đã trao cho thầy nhiều chỉ dẫn khẩu truyền đặc biệt về Tong-len, điều không có trong bản văn.
(Xem: 2021)
Bardor Tulku Rinpoche sinh năm 1949 ở Kham, miền Đông Tây Tạng. Từ rất nhỏ, Ngài đã được Đức Gyalwang Karmapa thứ 16 công nhậnhóa hiện thứ ba của Terchen Barway Dorje[1].
(Xem: 2074)
Môn đồ Nyingma của Chân ngôn Bí mật nhấn mạnh vào Mật điển thực sự[2]. Họ theo đuổi tri kiến cao nhất và ham thích hành vi ổn định.
(Xem: 2398)
Con đỉnh lễ đạo sư và đấng bảo hộ Văn Thù Sư Lợi! Trước tiên, hãy quy y Tam Bảo,
(Xem: 2091)
Một vị khác đã nghe những chỉ dẫn về cách tiếp cận Dzogchen Đại Viên Mãn từ Adzom Drukpa Rinpoche Drodul Pawo Dorje
(Xem: 1934)
Bopa Tulku Dongak Tenpe Nyima là một đệ tử của Kunpal Rinpoche[2], vị giữ gìn truyền thống thanh tịnh của Jamgon Mipham Rinpoche
(Xem: 2480)
Tôi, Pema Tsewang Lhundrup, đã chào đời trong năm Kim Mùi của chu kỳ lịch thứ mười sáu (tức năm 1931).
(Xem: 2156)
Khunkhen Pema Karpo là một trong những vị tổ dòng Phật giáo Drukpa Kayu ở miền xứ Tuyết.
(Xem: 2177)
Đạo sư vô song, Phật Thế Tôn; Giáo Pháp linh thiêng, thù thắng và chẳng dối lừa;
(Xem: 2600)
Mọi người đã đưa ra nhiều câu hỏi liên quan đến ý nghĩa của quy y và vì lý do đó, thầy đã thiết kế thẻ quy y mới này.
(Xem: 3670)
Nếu thời gian của con trong khóa nhập thất được sử dụng tốt, con sẽ làm hài lòng chư Phật cùng những vị trưởng tử, giúp hoàn thành...
(Xem: 2248)
Điều này được gửi đến những vị đang trong khóa nhập thất ba năm tại Pháp.
(Xem: 3349)
Sau khi phát khởi Bồ đề tâm trong Mật thừa và thọ nhận một quán đỉnh, người ta bước qua cánh cửa dẫn vào thực hành Mật thừa.
(Xem: 3029)
Một số đạo hữu đã yêu cầu thầy giải thích ý nghĩa của đai thiền định. Nói chung, đai thiền định được sử dụng bởi Tổ Milarepa khi thực hành Sáu Du Già Của Naropa.
(Xem: 5301)
Phật Thế Tôn đã giảng dạy bản văn sau đây, điều đem đến lợi lạc trong thời kỳ đen tối.
(Xem: 2641)
Om Ah Hung. Hôm nay, thầy có được cơ hội tuyệt vời để chia sẻ đôi lời về giới quy y.
(Xem: 3923)
Terton Lerab Lingpa Trinle Thaye Tsal vĩ đại, tức Terton Sogyal, là hóa hiện về thân của Tổ Nanam Dorje Dudjom[1], hóa hiện về khẩu của Kim Cương Hợi Mẫuhóa hiện về ý của Đại Sư Liên Hoa Sinh.
(Xem: 5341)
Hôm nay, chúng ta đều đã đến Vườn Cấp Cô Độc ở thành Xá Vệ, Ấn Độ, vùng đất của chư Thánh giả, nơi đã được cúng dường lên Đức Phật.
(Xem: 3881)
Điều đầu tiên mà bạn cần hiểu là mọi hữu tình chúng sinh đang sống trên thế giới này – ‘hữu tình chúng sinh của tam giới của sự tồn tại’ – là một sản phẩm của tâm.
(Xem: 2802)
Khi chúng ta nhìn vào hiện tượng vật chất trong thế giới này, chúng ta thấy rằng tất cả mọi sự vật hiện tượng xảy ra đều có nguyên nhân của nó.
(Xem: 2530)
Guru Rinpoche chào đời tám năm sau khi Đức Phật nhập diệt. Khi Đức Phật nhập diệt, Ngài sách tấn các đệ tử hãy hoan hỷ bởi Ngài sẽ trở lại là Guru Rinpoche.
(Xem: 2748)
Gần đây, nhiều người hỏi về Khandro Rinpoche tôn quý và những hoạt động tâm linh của Bà.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant