Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đức Đạt Lai Lạt Ma hướng dẫn về giáo huấn những giai trình giác ngộ

26 Tháng Hai 201200:00(Xem: 15061)
Đức Đạt Lai Lạt Ma hướng dẫn về giáo huấn những giai trình giác ngộ
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA
HƯỚNG DẪN VỀ GIÁO HUẤN NHỮNG GIAI TRÌNH GIÁC NGỘ
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma Dharamsala, India, March 26, 1986
Anh dịch: Alexander Berzin
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển - 02/02/2012


dalailama-giaitrinhgiacngo-contentNhững Giai Trình Giác Ngộ[1] và Bốn Chân Lý Cao Quý

BERZIN: Cách tốt nhất để giảng dạy Những Giai Trình Giác Ngộ ở Đông Âu là thế nào? Đức Thánh Thiện đã đề nghị trong Nghi Lễ Đạo Sư, Cúng Dường Đạo Sư, hay Lama Chopa, phạm vi bắt đầu với bốn chân lý cao quý và giai đoạn giữa. Ngài có thể chi tiết về điều này không? Cũng thế, lời khuyên bảo của ngài là gì với điều gọi là sự "Sùng Tín Đạo Sư[2]" và những sự thực tập khởi đầu. Những người trong thế giới chuyên chế không thể trưng bày những hình ảnh của Đức Phật hay dâng cúng nước trên bàn thờ, vì nó rất đáng nghi ngờ.

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Tôi nghĩ không chỉ trong thế giới cộng sản mà trong những nơi khác cũng thế, tốt nhất là bắt đầu với Bốn Chân Lý Cao Quý.

Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự khỏi đau khổ. Mục tiêu của sự giải thoát tạm thời đáp ứng cho trình độ khởi đầu trong động cơ của Con Đường Tiệm Tiến Lamrim. Mục tiêu cho sự giải thoát thật sự - hoặc là giải thoát khỏi vòng luân hồi hay việc đạt đến giác ngộ hoàn toàn - đáp ứng đến nguyện vọng của trình độ bậc trung (giải thoát) và trình độ bậc thượng (giác ngộ)].

Mục Tiêu Giải thoát Tạm Thời

Trên trình độ thứ nhất:

1- Từ việc tích lũy nghiệp chướng từ dính mắc và sân giận, chúng ta xây dựng nên nghiệp nhân không phước đức. Điều này làm cho phải tái sinh trong những tình trạng tệ hại đủ loại. Sự khổ đau của ba cõi khổ [những chúng sinh bị giam hãm trong thế giới không có niềm vui (địa ngục), quỷ đói và súc sinh] là sự thảo luận về những vấn nạn ở đây (Khổ đế).

2- Nguyên nhân của điều ấy là thái độ tàn phá, căn cứ trên sự bất giác (si mê) của của hành trạng nhân quả (nghiệp). Giải thích như nguyên nhân thật sự của khổ đau (tập đế).

3- Bước khởi đầu cho việc giải thoát chính chúng ta khỏi việc tái sinh vào những tình trạng tệ hại là nguyện ước giải thoát khỏi sự khổ đau ấy. Giải thích như loại giải thoát [như sự chấm dứt thật sự (diệt đế).

4- Những gì được hoàn thành điều này là đạo đức tự giác của việc ngăn ngừa khỏi mười điều tàn phá (mười bất thiện nghiệp) - (đạo đế). Được giải thích như những con đường thật sự. Đây là bao hàm của bốn chân lý cao quý.

Nói cách khác, điều thứ nhất cho cấu trúc của chính bốn chân lý cao quý. Rồi thì, trong cấu trúc bốn tầng ấy, trên trình độ thứ nhất [đáp ứng đến mục tiêu của giai đoạn khởi đầu của Con Đường Tiệm Tiến Lamrim], trong đặc trưng đầu tiên chúng ta có thể khẳng định những tái sinh tệ hại như căn bản. Vì thế, khổ đế giải thích khổ đau của những tình trạng tệ hại. Rồi thì lấy việc đạt được hạnh phúcan lạc thật sự của những tình trạng tái sinh khá hơn như những thí dụ của một loại giải thoát. Điều này có thể được quả quyết như sự giải thoát, việc biến thành hiện thực cho việc giải thoát khỏi khổ đau ấy, có thể chứ? Nó giống như sự giải thoát tạm thời. Rồi thì, việc hướng đến con đường cho việc giải thoát khỏi những nguyên nhân cho sự khổ đau này [được gọi là những hành động tiêu cực], hai quy luật quan tâm đến nguyên nhânhiệu quả liên hệ đến việc quan tâm khổ sở của đớn đau. [Quan tâm đến những nguyên nhân của khổ sở đớn đau trong những tình trạng tái sinh tệ hại,] từ một nguyên nhân nhỏ có thể đưa đến một kết quả lớn, và nếu tiến hành một hành động, nó sẽ không vô hiệu [hay không hậu quả gi]. Thái độ tàn phá cuối cùng sẽ đưa đến việc trải nghiệm khổ đau, ngoại trừ chúng ta tự tịnh hóa nghiệp nhân của nó sau đó.] Điều này đưa đến phía tịnh hóa của Bốn Chân Lý Cao Quý, việc phân rẻ khỏi nổi khổ sở của đớn đau và nguyên nhân của nó, và con đường của việc đạt đến điều ấy. Trong cách này, chúng ta thấu hiểu bốn chân lý cao quý, có phải thế không? Vấn đề chính nhấn mạnh khi giáo huấn con đường tiệm tiến lamrim, trong trường hợp ấy, là bốn chân lý cao quý và nguyện ước cho việc giải thoát.

Rồi thì, trên tất cả, là quy y. Đấy là tuyệt diệu nhất, có phải không? Bằng khác đi, nếu chúng ta không nhận ra điểm trọng tâm của Giáo lý trong dạng thức của bốn chân lý cao quý, thì trong trường hợp ấy điều gì chúng ta giải thích như là vấn đề quan trọng nhất của việc tái sinh hoàn toàn rõ ràng? [Không có phạm vi của bốn chân lý cao quý,] nếu chúng ta nghĩ về việc tái sinh quý báu của con người, nếu chúng ta chỉ kết luận rằng thân người là quan trọng, điều ấy không thuyết phục cho lắm.

Truyền thống Sakya, con đường và những kết quả của nó (lamdray) được cấu trúc như thế này, với bốn chân lý cao quý trong tâm. Đầu tiên, chúng ta cần nghĩ về khổ đau, và duy chỉ trường hợp về việc tái sinh thân người hoàn toàn rõ ràng. Điều này, tôi nghĩ là rất tốt. Đức Phật nói cho cùng, trước nhất dạy về bốn chân lý cao quý. Giống như thế, chúng ta có thể tiến hành một cách dễ dàng trong con đường mà những trình độ bậc trung (giải thoát) và bậc thượng (giác ngộ) của lamrim thích hợp trong cấu trúc của bốn chân lý cao quý để đạt đến sự giải thoát thật sự.

[For further detail, see: Lam-rim Structured According to the Four Noble Truths.]

Tha Thiết cho Giải Thoát Thật Sự

BERZIN: Lưu tâm đến điểm Đức Thánh Thiện cũng nhấn mạnh đến giai đoạn bậc trung ngay từ lúc khởi đầu, có phải điều này liên hệ đến việc đặt nhấn mạnh trên những cảm xúcthái độ phiền não và trên sự giải thích về tâm thức chứ?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Vâng, điều này là tốt nhất. Nếu trước đấy, chúng ta không đạt được một niềm tin vững vàng thật sự rằng giải thoát là có thể đạt được, thế thì Pháp bảo sẽ không phát sinh gì cả. [Nói cách khác, chúng ta cần niềm tin chắc rằng các cảm xúcthái độ phiền não (khổ đếtập đế) đang lướt qua như phù du, rằng tâm thứcthanh tịnh bản nhiên (bản chất ngừng dứt chân thật, tự tính thanh tịnh niết bàn) và vì thế có thể loại trừ những cảm xúcthái độ phiền não vĩnh viễn (đạt đến những sự chấm dứt thật sự (diệt đế) qua những con đường chân thật (đạo đế))

Xa hơn, [liên hệ đến bậc thượng,] sẽ hữu ích nếu giải thích một ít về từ ái, bi mẫn và tâm bồ đề. Cho dù người ta có chấp nhậnđời sống quá khứ hay không hay có sự giải thoát khỏi sự tái sinh không thể kiểm soát hay không, nhưng trong cuộc sống này thật quan trọng để là một người đáng yêu, sống hòa hiệp với người khác.

[See: "Dharma-Lite" Versus "The Real Thing" Dharma.]

Rồi thì , thật tốt đẹp để nghĩ về bốn vô lượng tâm - nguyện ước rằng tất cả chúng sinh được tự do khỏi khổ đau, được phú cho hạnh phúc, tự do khỏi tất cả những nguyên nhân của khổ đau, và không bị cách ly khỏi hạnh phúc. Tiếp theo giái thích những thái độ bình đẳnghoán chuyển mình với người khác. Nói cách khác, tự yêu mến là cánh cửa cho tất cả mọi rắc rối, yêu mến người khác là căn bản cho tất cả mọi phẩm chất tốt đẹp, và, khi chúng ta đạt được sự thực chứng của hai điều ấy, hãy tự sử dụng để làm lợi ích cho xã hội.

[See: Exchanging and Equalizing One’s Attitudes about Self and Others.

Vị Trí của sự " Sùng Tín Đạo Sư" trong Con Đường Tiệm Tiến Lamrim

BERZIN: Có bất cứ cần thiết nào để đề cập đến sự trung tín với đạo sư không? Họ không có những đạo sư.

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Khi chúng ta quy y, sự quy y thực sự là những trân bảo của Đạo Phật (diệt đếđạo đế). Để có Pháp bảo trên sự tương tục tinh thần của chúng ta, chúng ta cần những phương pháp cho việc phát sinh trong tâm thức chúng tachúng ta cần ai đấy biểu thị qua những giải thíchgương mẫu cá nhân những gì thật sự là Pháp bảo. Chúng ta cũng cần thiện hữu tri thức, Tăng già, được gọi là những người ở trong tiến trình hiện thực Pháp bảo một cách thích đáng và đã đạt được thành công trên một trình độ nào đó.

[See: Identifying the Objects of Safe Direction (Refuge).]

Như thế đấy rồi thì khi chúng ta hỏi, ai là người biểu thị Pháp bảo ngoại trừ vị đạo sư, chúng ta thấy trong từ ngữ Tây Tạng chữ người biểu thị là tenpa cũng là một chữ dành cho vị thầy. Không có vị thầy biểu thị Pháp bảo, chúng ta sẽ không thể thực tập. Giống như thế này, chúng ta đi đến đạo sư.

Không nhất thiết, và không có điểm nào, cần phải nói về đạo sưvấn đề liên hệ đến một người được giải thích trong truyền thống Những Giai Trình Giác Ngộ. Chỉ nói đến trình độ đơn giản. Bởi vì người giảng dạy cho chúng ta là quan trọng, giáo huấn thảo luận về những phẩm chất vị ấy. Rồi thì, cũng tốt thôi để giải thích về những phẩm chất của một vị thầy tâm linh phù hợp với những trình độ khác nhau của vị thầy, như được giải thích trong luật tạng, kinh điển Đại thừa, v.v...

BERZIN: Khi tôi ở Đông Âu lần chót, tôi thật sự đã giải thích về đời sống quý giá của con người. Tôi thấy rằng nhiều người sống trong những quốc gia ấy cảm thấy đau buồn cho họ, rằng dưới hệ thống ấy, họ không thể làm bất cứ điều gì thật sự đầy đủ ý nghĩa hay làm bất cứ điều gì cho đời sống của họ. Họ dường như cảm kích những giáo huấn về đời sống con người quý báu rất nhiều.

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Rất tốt, đấy là sự tiếp cận đúng đắn.

Nguyên bản: Advice from His Holiness the Fourteenth Dalai Lama on Teaching Lam-rim
Ẩn Tâm Lộ ngày 24-02-2012
http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/sutra/level2_lamrim/overview/general/advice_hhdl_teaching_lamrim.html


[1] Con Đường Tiệm Tiến Lamrim hay Những Giai Tầng Giác Ngộ

[2] Guru Devotion: mối quan hệ lành mạnh đúng đắn

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 330)
Ta sinh ra tại thung lũng thượng Dra ở Yoru, là con trai của Lobpon Tenpa Sung và Droza Sonam Gyen. Từ thuở nhỏ,
(Xem: 324)
Kính lễ đạo sư vinh quang, vị Thánh Tôn, Đấng viên thành mong ước thù thắng
(Xem: 421)
Trong chuyến viếng thăm ngắn đến Hà Lan, Rinpoche được mời đến giảng dạy một tối về truyền thống Kim Cương thừa
(Xem: 787)
(1) Kính lễ bậc Chúa Tể (dòng họ) Thích Ca. Thân Ngài đản sanh từ vô lượng công đức, tướng hảo thù thắng. Lời Ngài làm thỏa mãn hy vọng của vô lượng chúng sanh.
(Xem: 782)
Trước khi chuyển di thần thức của người đã khuất, hãy bắt đầu bằng cách gọi tên họ số lần thích hợp.
(Xem: 892)
Nhìn chung, điều được gọi là Tâm Yếu Bốn Phần chủ yếu bao gồm những giáo lý của Tôn giả Vimalamitra [Vô Cấu Hữu],
(Xem: 865)
Khai thị của Kyabje Lama Zopa Rinpoche về tánh Không (shunyata) trong lễ quy y tại Trung Tâm Phật Giáo A Di Đà
(Xem: 1156)
Hãy đảm bảo rằng, trước khi tôi bắt đầu, các bạn phát khởi động cơ Bồ đề tâm thù thắng, tâm giác ngộ quý báu.
(Xem: 1388)
Tobgyal Rinpoche[1] được thỉnh cầu nói về các Bardo (những trạng thái chuyển tiếp), một nét đặc trưng độc đáo của giáo lý Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 1170)
Hãy phát khởi động lựchành vi đúng đắn, nghĩ rằng tôi phải tạo lợi lạc cho tất cả chúng sanh bao la như không gian,
(Xem: 2474)
Tôn giả Longchen Rabjam (1308-1363) sinh ra ở Yoru thuộc phần phía Đông của miền Trung Tây Tạng, gần Tu viện Samye vĩ đại mà Đạo Sư Liên Hoa Sinh xây dựng vào thế kỷ tám.
(Xem: 1874)
Có nhiều vị Tôn trên thế gian này và Phổ Ba Kim Cương là một trong số đó. Thực hành về Ngài được biết đến là “thực hành Phổ Ba Kim Cương để ...
(Xem: 3569)
Từ năm lên ba, Lama Drimed Rinpoche đã bày tỏ niềm tin và sự yêu thích đáng kinh ngạc với Phật Pháp.
(Xem: 1696)
Đức Shechen Rabjam thứ nhất – Tenpe Gyaltsen sinh năm 1650, năm Kim Dần của chu kỳ sáu mươi năm thứ mười một.
(Xem: 2631)
Geshe Ngawang Dhargyey (1921-1995) sinh ra ở vùng Trehor thuộc Kham, phía đông của Tây Tạng và học ở Tu viện Dhargyey địa phương cho đến khi 18 tuổi.
(Xem: 2401)
Này Tashi Lhamo[2] thành kính, nếu con muốn đạt giác ngộ, Hãy suy nghĩ xem thật khó khăn làm sao mới có được thân người tự dothuận duyên này.
(Xem: 2058)
Nhìn chung, chúng ta có thể nói rằng có hai phần trong truyền thừa Barom Kagyu: truyền thừa truyền miệng dài và truyền thừa ngắn của linh kiến sâu xa.
(Xem: 3011)
Khi cặp vợ chồng từ tộc Drenka ở Penyul trở thành cha mẹ tự hào của một người contrai vào năm 1127, họ đặt tên cậu bé theo một Kinh điển:
(Xem: 2104)
Ngài Drapa Ngonshe sinh vào năm Thủy Tý đực (tức năm 1012 Dương lịch) với cha là ông Zhangtag Karwa, người đã đặt tên Ngài là Taktsab.
(Xem: 2427)
Ngài Phakmodrupa Dorje Gyalpo sinh năm 1110 và được nuôi dưỡng bởi cha mẹ nghèo khó ở phía Nam của Kham.
(Xem: 1868)
Từ quan điểm chiêm tinh, tháng Thân linh thiêng tương ứng với tháng 5 Âm lịch Tây Tạng. Ngài Terdak Lingpa[3], em trai[4] và Đức Dalai Lama thứ Năm ...
(Xem: 1762)
Theo các tiểu sử, Bà Mandarava là một công chúa thông tuệ, thiện lành và xinh đẹp, sinh ra trong một gia đình hoàng gia ở Zahor,
(Xem: 2495)
Khandro Tare Lhamo sinh năm Thổ Dần 1938 trong thung lũng Bokyi Yumolung của vùng du mục Golok.
(Xem: 1558)
Sera Khandro Kunzang Dekyong Wangmo sinh ra trong một gia đình giàu có, quyền lực về chính trị ở Lhasa.
(Xem: 2865)
Bà Jetsun Jampa Chokyi sinh vào ngày 30 tháng 12 năm Thủy Tuất (1922). Cha Bà, Sonam Tobgyal, xuất thân từ gia đình...
(Xem: 1921)
Dưới chân đạo sư, con đỉnh lễ. Nhớ về vô thường và cái chết, Đẩy lui bám chấp với đời này và trưởng dưỡng xả ly –
(Xem: 3851)
Đức Riwoche Jedrung thứ bảy – Jampa Jungne sinh năm 1856 trong gia đình Shol Danak của Tu viện Riwoche ở Kham,
(Xem: 2166)
Sau đây là ảnh hưởng từ hành vi của bạn tốt: Đồng hành cùng vị uyên bác giúp tăng trưởng sự thông tuệ. Đồng hành cùng vị bi mẫn giúp đánh thức Bồ đề tâm.
(Xem: 2009)
Thân người tự dothuận duyên này mà con đã có được. Cung cấp nền tảng để đạt được hỷ lạc vĩnh cửu.
(Xem: 2560)
Từng có một học trò, người đến gặp đạo sư để thỉnh cầu chỉ dẫn. Vị đạo sư sắp rời đi và đang vội nhưng Ngài vẫn chấp nhận lời thỉnh cầu.
(Xem: 4542)
Bản văn này được Orgyen Tobgyal Rinpoche mạnh mẽ khuyến khích với những vị mong muốn làm sâu sắc sự hiểu của họ về thực hành Sur[1].
(Xem: 1970)
Đầu tiên trong sáu ba la mật, bố thí ba la mật, không phải chỉ là về trao cho người nghèo.
(Xem: 2861)
Nhìn chung, những điểm then chốt để thấu triệt giáo lý của Phật là: Được thúc đẩy bởi sự xả ly và Bồ đề tâm, Tránh ác hạnhnỗ lực làm các thiện hạnh,
(Xem: 1690)
Đầu tiên, bởi thân người này – sự hỗ trợ cho các phẩm tính của giải thoát – khó được, chúng ta phải hướng các ý nghĩ rời khỏi những vấn đề của đời này.
(Xem: 2588)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 2676)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 2077)
Liều thuốc giải cho ảo tưởng, bản ngã và từng vấn đề khác mà chúng ta đối mặt là trí huệ của Pháp;
(Xem: 3658)
Khi bắt đầu thiền định, một trong những cách thức để tăng trưởng Bồ đề tâmlòng bi mẫnthực hành cho và nhận
(Xem: 3115)
Thực hành chính yếu mà thầy tiến hành trong tù ngục là Tong-len (cho và nhận). Khenpo Munsel[1] đã trao cho thầy nhiều chỉ dẫn khẩu truyền đặc biệt về Tong-len, điều không có trong bản văn.
(Xem: 2049)
Bardor Tulku Rinpoche sinh năm 1949 ở Kham, miền Đông Tây Tạng. Từ rất nhỏ, Ngài đã được Đức Gyalwang Karmapa thứ 16 công nhậnhóa hiện thứ ba của Terchen Barway Dorje[1].
(Xem: 2103)
Môn đồ Nyingma của Chân ngôn Bí mật nhấn mạnh vào Mật điển thực sự[2]. Họ theo đuổi tri kiến cao nhất và ham thích hành vi ổn định.
(Xem: 2419)
Con đỉnh lễ đạo sư và đấng bảo hộ Văn Thù Sư Lợi! Trước tiên, hãy quy y Tam Bảo,
(Xem: 2111)
Một vị khác đã nghe những chỉ dẫn về cách tiếp cận Dzogchen Đại Viên Mãn từ Adzom Drukpa Rinpoche Drodul Pawo Dorje
(Xem: 1957)
Bopa Tulku Dongak Tenpe Nyima là một đệ tử của Kunpal Rinpoche[2], vị giữ gìn truyền thống thanh tịnh của Jamgon Mipham Rinpoche
(Xem: 2499)
Tôi, Pema Tsewang Lhundrup, đã chào đời trong năm Kim Mùi của chu kỳ lịch thứ mười sáu (tức năm 1931).
(Xem: 2177)
Khunkhen Pema Karpo là một trong những vị tổ dòng Phật giáo Drukpa Kayu ở miền xứ Tuyết.
(Xem: 2205)
Đạo sư vô song, Phật Thế Tôn; Giáo Pháp linh thiêng, thù thắng và chẳng dối lừa;
(Xem: 2623)
Mọi người đã đưa ra nhiều câu hỏi liên quan đến ý nghĩa của quy y và vì lý do đó, thầy đã thiết kế thẻ quy y mới này.
(Xem: 3689)
Nếu thời gian của con trong khóa nhập thất được sử dụng tốt, con sẽ làm hài lòng chư Phật cùng những vị trưởng tử, giúp hoàn thành...
(Xem: 2270)
Điều này được gửi đến những vị đang trong khóa nhập thất ba năm tại Pháp.
(Xem: 3373)
Sau khi phát khởi Bồ đề tâm trong Mật thừa và thọ nhận một quán đỉnh, người ta bước qua cánh cửa dẫn vào thực hành Mật thừa.
(Xem: 3045)
Một số đạo hữu đã yêu cầu thầy giải thích ý nghĩa của đai thiền định. Nói chung, đai thiền định được sử dụng bởi Tổ Milarepa khi thực hành Sáu Du Già Của Naropa.
(Xem: 5323)
Phật Thế Tôn đã giảng dạy bản văn sau đây, điều đem đến lợi lạc trong thời kỳ đen tối.
(Xem: 2670)
Om Ah Hung. Hôm nay, thầy có được cơ hội tuyệt vời để chia sẻ đôi lời về giới quy y.
(Xem: 3938)
Terton Lerab Lingpa Trinle Thaye Tsal vĩ đại, tức Terton Sogyal, là hóa hiện về thân của Tổ Nanam Dorje Dudjom[1], hóa hiện về khẩu của Kim Cương Hợi Mẫuhóa hiện về ý của Đại Sư Liên Hoa Sinh.
(Xem: 5364)
Hôm nay, chúng ta đều đã đến Vườn Cấp Cô Độc ở thành Xá Vệ, Ấn Độ, vùng đất của chư Thánh giả, nơi đã được cúng dường lên Đức Phật.
(Xem: 3903)
Điều đầu tiên mà bạn cần hiểu là mọi hữu tình chúng sinh đang sống trên thế giới này – ‘hữu tình chúng sinh của tam giới của sự tồn tại’ – là một sản phẩm của tâm.
(Xem: 2825)
Khi chúng ta nhìn vào hiện tượng vật chất trong thế giới này, chúng ta thấy rằng tất cả mọi sự vật hiện tượng xảy ra đều có nguyên nhân của nó.
(Xem: 2548)
Guru Rinpoche chào đời tám năm sau khi Đức Phật nhập diệt. Khi Đức Phật nhập diệt, Ngài sách tấn các đệ tử hãy hoan hỷ bởi Ngài sẽ trở lại là Guru Rinpoche.
(Xem: 2770)
Gần đây, nhiều người hỏi về Khandro Rinpoche tôn quý và những hoạt động tâm linh của Bà.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant