Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tạng Thư Sống Chết

04 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 23157)
Tạng Thư Sống Chết

TẠNG THƯ SỐNG CHẾT

The Tibetan Book Of Living And Dying

Sogyal Rinpoche - Ni sư Thích Nữ Trí Hải dịch
Nhà xuất bản Thanh Văn Hoa Kỳ 1992 và Nhà xuất bản Xuân Thu Hoa Kỳ 1996 (*)


tangthusongchet-bia-xuanthu

MỤC LỤC


Lời giới thiệu của Đức Dalai Lama
Lời nói đầu

PHẦN MỘT: SỐNG
01 Trong tấm gương của cái chết
02 Vô thường
03 Tư duy và thay đổi
04 Bản chất của tâm
05 Đưa tâm về nhà
06 Tiến hóa, Nghiệp và tái sinh
07 Bardo và những thực tại khác
08 Đời này: Bardo tự nhiên
09 Con đường tâm linh
10 Tự tánh sâu xa của tâm
PHẦN HAI: CHẾT
11 Lời khuyên tâm huyết giúp người sắp chết
12 Lòng bi mẫn: viên ngọc như ý
13 Giúp đỡ tinh thần người sắp chết
14 Hành trì cho người sắp chết
15 Tiến trình chết
PHẦN BA: CHẾT VÀ TÁI SINH
16 Nền tảng
17 Tia sáng nội tại
18 Trung ấm (Bardo) tái sinh
19 Giúp đỡ sau khi chết
20 Kinh nghiệm cẩn tử: nấc thang lên trời?
PHẦN BỐN: KẾT LUẬN
21 Tiến trình phổ quát
22 Sứ giả hòa bình
Phụ lục 1: Vấn đáp về sự chết
Phụ lục 2: Hai mẫu chuyện
Phụ lục 3: Hai bài thần chú

Lời giới thiệu
của đức DALAI LAMA


Trong tác phẩm này, thầy Soyal tập trung vào các vấn đề làm sao để hiểu ý nghĩa thực thụ của sự sống, làm sao để chấp nhận cái chết, và làm sao để giúp đỡ người sắp chết, và người đã chết.

Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống. Hoặc là ta tảng lờ nó, hoặc là ta chạm trán với viễn ảnh cái chết của chính mình, và bằng cách tư duy sáng suốt về nó, ta cố giảm thiểu những khổ đau mà cái chết có thể mang lại. Tuy nhiên, trong cả hai cách, không cách nào chúng ta có thể thực thụ chinh phục được sự chết.

Là một Phật tử, tôi xem chết là chuyện bình thường, là một thực tại mà tôi phải chấp nhận, khi tôi còn hiện hữu trên trái đất. Đã biết không thể nào thoát khỏi, thì lo lắng làm gì. Tôi có khuynh hướng nghĩ đến sự chết cũng như thay bộ y phục khi nó đã cũ mòn, hơn là một cái gì hoàn toàn chấm dứt. Tuy vậy cái chết không thể biết trước: ta không biết được khi nào cái chết đến với ta, và ta sẽ chết như thế nào. Bởi thế tốt hơn cả là ta hãy dự phòng một số việc trước khi cái chết thực sự xảy ra.

Đương nhiên phần đông chúng ta đều muốn có một cái chết an ổn, nhưng một điều cũng hiển nhiên nữa, là ta không thể hy vọng chết một cách thanh bình nếu đời sống của ta đầy những bạo hành, hoặc nếu tâm ta thường giao động vì những cảm xúc mạnh như giận dữ, ái luyến, hay sợ hãi. Bởi thế, nếu ta muốn chết tốt, ta phải học cách sống tốt. Nếu ta mong có được một cái chết an lành, thì ta phải đào luyện sự bình an trong tâm ta, và trong lối sống của ta.

Như bạn đọc sẽ thấy trong sách này, theo quan điểm Phật giáo thì cái kinh nghiệm thực thụ về chết rất quan trọng. Mặc dù sự tái sinh của chúng ta, nơi tái sinh của ta phần lớn tùy thuộc vào năng lực của nghiệp, song tâm trạng ta vào lúc chết có thể ảnh hưởng tới tính chất của tái sanh kế tiếp. Vậy, vào lúc chết, mặc dù ta đã tích lũy đủ loại nghiệp, nhưng nếu ta làm một nỗ lực đặc biệt để phát sinh một tâm lành, thì có thể tăng cường và khởi động một nghiệp thiện, và do đó đem lại một tái sinh hạnh phúc.

Lúc chết thực sự cũng là lúc mà những kinh nghiệm nội tâm lợi lạc sâu xa nhất có thể xảy ra. Do thường thực tập tiến trình chết trong khi thiền định, một thiền giả tu cao có thể sử dụng lúc chết của mình để đạt những chứng ngộ lớn lao. Đấy là lý do những hành giảkinh nghiệm thường nhập định vào lúc họ chết. Một dấu hiệu của sự đắc đạo nơi họ là thi thể họ thường không thối rửa sau khi họ đã chết rất lâu trên phương diện lâm sàng.

Ngoài sự chuẩn bị cái chết của riêng mình, một việc khác không kém phần quan trọng là giúp người khác có một cái chết tốt đẹp. Khi mới sinh ra đời, chúng ta đều là những hài nhi yếu đuối; nếu không nhờ sự săn sóc tử tế mà chúng đã nhận được, thì chúng ta đã không thể sống còn. Người sắp chết cũng thế, không thể tự túc được, nên ta phải giúp họ thoát khỏi những bất tiện và lo âu, và cố hết sức để giúp họ có một cái chết thanh thản. Điều quan trọng nhất là tránh làm điều gì khiến cho tâm người sắp chết thêm rối loạn. Mục đích trước nhất của chúng ta giúp người sắp chết là làm cho họ được thoải mái. Có nhiều cách để làm việc này. Với người đã quen tu tập, nếu khi họ sắp chết mà ta nhắc nhở chuyện tu hành, tinh thần họ có thể thêm phấn chấn. Một lời trấn an đầy từ ái của ta có thể gợi cho người sắp chết một thái độ bình an, thoải mái.

Cái chết và tiến trình chết có thể cung cấp một giao điểm gặp gỡ giữa Phật giáo Tây Tạng và khoa học tân tiến. Tôi tin rằng hai bên có thể cống hiến cho nhau rất nhiều về hiểu biếtthực hành. Thầy Sogyal Rinpoche đúng là người để làm cho cuộc gặp gỡ này thêm dễ dàng, vì thầy đã sinh ra và trưởng thành trong truyền thống Tây Tạng, đã thụ giáo với một vài vị lạt ma tên tuổi nhất của Tây Tạng, đồng thời thầy cũng được hấp thụ một nền giáo dục tân tiến, đã sống và giảng dạy nhiều năm ở Tây phương và đã quen thuộc với lề lối tư duy của người phương Tây.

Sách này không chỉ cống hiến cho độc giả một trình bày lý thuyết về sự chết, mà còn cung cấp những cách thực tiễn để hiểu và tự chuẩn bị cho mình lẫn người khác (về cái chết) một cách thản nhiênviên mãn.

Ngày 2 tháng 6, 1992


Lời Nói Đầublank

Tôi sinh ra ở Tây Tạng, và mới vừa sáu tháng tuổi, tôi đã vào tu viện của thầy tôi, Jamyang Khientse Chokyi Lodro. Ở Tây Tạng chúng tôitruyền thống độc đáo là tìm tái sinh của những bậc thầy vĩ đại đã từ trần. Họ được tuyển chọn từ lúc hãy còn bé và được cung cấp một nền giáo dục đặc biệt, huấn luyện họ trở thành những bậc thầy trong tương lai. Tôi được đặt tên là Sogyal, mặc dù mãi lâu về sau thầy tôi mới nhận ra tôi là tái sinh của Terton Sogyal, một hành giả mật tông nổi tiếng đã từng là một trong những bậc giáo thọ của chính thầy, và là một bậc thầy của đức Dalai Lama thứ mười ba.

Thầy tôi, Jamyang Khientse, dáng người cao lớn vượt hẳn khổ người Tây Tạng trung bình. Thầy thường đứng cao hơn mọi người cả một cái đầu, trong đám đông. Tóc thầy có màu bạch kim cắt thật ngắn, và đôi mắt từ bi thường ánh lên một vẻ hài hước. Đôi tai dài, giống tai Phật. Nhưng điều làm ta chú ý nhất nơi thầy là sự hiện diện của thầy. Cái nhìn và dáng điệu của thầy cho ta biết thầy là một người minh triết và thánh thiện. Thầy có một giọng nói thâm hậu, hấp dẫn, và mỗi khi giảng dạy, đầu hơi ngả về phía sau, lời giảng tuôn ra từ nơi thầy như nước chảy, hùng hồn và đầy thi vị. Và mặc dù thầy được mọi người kính nể, sợ nữa là khác, ta vẫn nhận thấy một thái độ khiêm cung trong mọi việc thầy làm.

Jamyang Khientse là nền tảng của cuộc đời tôi, và là nguồn cảm hứng cho tác phẩm này. Thầy là nhập thể của một bậc thầy đã canh tân sự thực hành đạo Phật trong xứ sở chúng tôi. Ở Tây Tạng, được danh xưng là một vị “tái sinh” chưa đủ, bạn luôn luôn phải làm cho người ta kính nể nhờ học và tu. Thầy tôi thường nhập thất nhiều năm, và có nhiều mẫu chuyện mầu nhiệm được kể về thầy. Thầy có tri kiếnthực chứng tâm linh sâu xa, và tôi dần khám phá rằng thầy giống như một bộ bách khoa về trí tuệ, thầy biết giải đáp cho mọi câu hỏi bạn có thể đặt ra. Ở Tây Tạng có nhiều dòng tu, nhưng thầy Jamyang Khientse lại có tiếng là một vị thông suốt tất cả lý thuyết các dòng ấy. Đối với mọi người đã biết hay nghe nói về thầy, thì thầy chính là nhập thể của Phật giáo Tây Tạng, một bằng chứng sống cho ta thấy thế nào là một con người “thuyết thông lẫn tông thông”.

Tôi đã nghe nói thầy tôi bảo rằng tôi sẽ giúp tiếp nối sự nghiệp của thầy, và dĩ nhiên thầy luôn xem tôi như con đẻ. Tôi có cảm nghĩ rằng những gì tôi có thể thành tựu được trong công việc của mình đều nhờ ân phước của thầy tôi.

Mọi hoài niệm sớm sủa nhất của tôi đều là hoài niệm về thầy tôi. Thầy là bối cảnh trong đó tôi lớn lên, và ảnh hưởng thầy ngự trị tuổi thơ tôi. Thầy như một người cha đối với tôi. Thầy cho tôi bất cứ gì tôi xin cầu. Người bạn đạo của thầy, Khandro Tsering Chodron, mà cũng là cô tôi, thường bảo:

- Đừng quấy rầy Rinpoche, có thể ông đang bận đấy.

Nhưng tôi thì luôn muốn ở bên cạnh thầy, và thầy cũng sung sướng có tôi ở bên mình, Tôi thường không ngớt đặt những câu hỏi với thầy suốt buổi, và thầy luôn luôn kiên nhẫn trả lời tôi. Tôi là một đứa bé hư hỏng, không một thầy giáo nào có thể ghép tôi vào kỷ luật. Mỗi khi họ cố đánh tôi, thì tôi lại chạy đến thầy, leo lên sau lưng thầy, thế là không ai dám bén mảng. Thu mình ở đấy, tôi cảm thấy hãnh diện và khoái thích, còn thầy chỉ cười lớn. Bỗng một ngày nọ, thầy dạy kèm yêu cầu thầy tôi mà tôi không biết, giải thích rằng vì lợi ích cho riêng tôi, không thể tiếp tục để như thế được. Lần kế tiếp khi tôi chạy đến nấp sau lưng thầy, thì thầy dạy kèm đi vào phòng, lạy thầy tôi ba lạy, rồi lôi tôi ra ngoài. Trong khi bị kéo ra khỏi phòng, tôi nhớ mình đang nghĩ rằng, thật lạ lùng là ông này dường như không sợ gì thầy tôi cả.

Jamyang Khientse thường ở trong gian phòng mà tiền thân của thầy đã có những linh kiến và khởi sự công cuộc phục hưng văn hóatôn giáo đã lan tràn suốt miền đông Tây Tạng trong thế kỷ trước. Đấy là một gian phòng kỳ diệu, không rộng lắm nhưng có một bầu không khí thần tiên, đầy những vật thiêng liêng, tranh và sách. Nó được gọi là “thiên đường của những vị Phật”, “căn phòng đầy năng lực”. Nếu có cái gì ở Tây Tạng làm tôi nhớ nhung, thấp làm bằng gỗ và những đai da, tôi ngồi bên cạnh. Tôi thường không chịu ăn cái gì không phải lấy từ nơi bát của thầy. Trong cái phòng ngủ nhỏ gần kề, có một hành lang luôn luôn mờ tối, với một ấm nước trà sủi bọt trên hỏa lò nhỏ đặt trong góc. Tôi thường ngủ cạnh thầy tôi, trên một cái giường nhỏ dưới chân giường thầy. Một âm thanh mà tôi không bao giờ quên được là tiếng lần tràng hạt của thầy trong lúc thầy nhẩm những lời cầu nguyện. Khi tôi đi ngủ thầy thường vẫn ở đấy, ngồi thiền đọc kinh và sáng sớm khi tôi thức dậy thì thầy cũng đã ngồi tu tập, tràn đầy năng lực và ân phước. Mỗi khi mở mắt trông thấy thầy, lòng tôi lại ngập tràn một niềm hạnh phúc ấm cúng. Có một vẻ gì rất thanh bình nơi thầy.

Khi tôi lớn lên, thầy Jamyang thường để cho tôi chủ tọa những buổi lễ, còn thầy làm duy na điều khiển thời tán tụng. Tôi có dịp chứng kiến tất cả những cuộc giảng dạy và phép quán đảnh mà thầy làm cho mọi người, nhưng không phải nhớ những chi tiết mà nhớ bầu không khí trong những dịp ấy. Với tôi, thầy chính là Phật, tôi không còn nghi ngờ gì về chuyện ấy. Và mọi người khác cũng công nhận như thế nữa. Khi thầy làm lễ quán đảnh, những đệ tử sợ tới nỗi không dám nhìn mặt thầy. Một vài người thấy thầy dưới hình dạng của vị tiền thân của thầy, hoặc thấy thầy giống vị Phật này, vị bồ tát kia. Mọi người gọi ngài là Rinpoche, “bậc quý nhân,” danh xưng đối với một bậc thầy, và khi thầy ở đấy thì không có vị nào khác được gọi bằng danh từ ấy. Sự hiện diện của thầy gây cảm khái tới nỗi nhiều người thương mến gọi thầy là “Phật nguyên thủy.”

Nếu tôi không gặp được thầy tôi, tôi đã thành một con người khác hẳn. Với trí tuệ và đức bi mẫn, thầy là hiện thân của giáo lý thiêng liêng và khiến cho giáo lý ấy thực tiễn và đầy sức sống. Khi tôi nói với người khác về bầu không khí vây quanh thầy tôi, họ cũng cảm thấy như tôi. Vậy, thầy tôi đã gây trong tôi cảm hứng gì? Đó là một lòng tin không lay chuyển đối với nên giáo lý, và một niềm tin ở tầm quan trọng chính yếu và quyết liệt của bậc thầy. Bất cứ một hiểu biết gì mà tôi có được, đều nhờ thầy mà có. Đấy là một điều không bao giờ tôi có thể đền đáp, song tôi có thể trao lại cho những người khác.

Suốt thời niên thiếu của tôi ở Tây Tạng tôi đã thấy cái tình yêu thương mà thầy tôi thường tỏa ra trong hội chúng, nhất là khi hướng dẫn người hấp hối và người đã chết. Một vị Lama ở Tây Tạng không chỉ là một bậc thầy về tâm linh mà còn là một người minh triết, một người trị bệnh, cha xứ, bác sĩ, người chữa tâm bệnh, người giúp đỡ kẻ hấp hối. Về sau tôi phải học những kỹ thuật đặc biệt để hướng dẫn người sắp chết và người chết, từ những giáo lý liên hệ cuốn Tử thư Tây Tạng. Nhưng những bài học lớn nhất mà tôi học được về sự chết – và về sự sống, là nhờ ngắm nhìn thầy tôi khi thầy hướng dẫn người chết với một lòng bi mẫn vô biên, với trí tuệhiểu biết.

Tôi cầu nguyện rằng sách này sẽ truyền đạt đến mọi người một trí tuệtừ bi của ngài, và qua nó, các bạn có thể cảm nhận phần nào tâm đầy trí tuệ của ngài và tìm thấy một mối giao cảm linh động với ngài.

Lời Dịch Gỉablank

Tạng Thư Sống Chết không những là một tuyệt tác về tâm linh mà còn là một sách dẫn, một cẩm nang, sách tham khảo, và một nguồn cảm hứng thiêng liêng. "Trong một thời đại cực kỳ nguy hiểm như ngày nay, khi nhiều người trong chúng ta đang tìm kiếm sự hướng đạo minh triết và những giải đáp soi sáng cho ta về cách sống cuộc đời mình và cách đối mặt với cái chết, thì tác phẩm này đang cống hiến một sự hướng đạo như thế, một vài lời giải đáp như thế. Nó đã được viết ra để gợi cảm hứng cho người đọc khởi sự cuộc hành trình tiến về giác ngộ, để thành những "sứ giả hòa bình" theo như tác giả gọi, những người làm việc với trí tuệtình thương, để trực tiếp góp phần vào sự cứu vãn tương lai nhân loại.

Source: Tu Viện Quảng đức



Cước Chú:

(*) Sách của Nhà Xuất Bản Xuân Thu không đề tên dịch giả

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 310)
Ta sinh ra tại thung lũng thượng Dra ở Yoru, là con trai của Lobpon Tenpa Sung và Droza Sonam Gyen. Từ thuở nhỏ,
(Xem: 308)
Kính lễ đạo sư vinh quang, vị Thánh Tôn, Đấng viên thành mong ước thù thắng
(Xem: 408)
Trong chuyến viếng thăm ngắn đến Hà Lan, Rinpoche được mời đến giảng dạy một tối về truyền thống Kim Cương thừa
(Xem: 772)
(1) Kính lễ bậc Chúa Tể (dòng họ) Thích Ca. Thân Ngài đản sanh từ vô lượng công đức, tướng hảo thù thắng. Lời Ngài làm thỏa mãn hy vọng của vô lượng chúng sanh.
(Xem: 769)
Trước khi chuyển di thần thức của người đã khuất, hãy bắt đầu bằng cách gọi tên họ số lần thích hợp.
(Xem: 879)
Nhìn chung, điều được gọi là Tâm Yếu Bốn Phần chủ yếu bao gồm những giáo lý của Tôn giả Vimalamitra [Vô Cấu Hữu],
(Xem: 857)
Khai thị của Kyabje Lama Zopa Rinpoche về tánh Không (shunyata) trong lễ quy y tại Trung Tâm Phật Giáo A Di Đà
(Xem: 1144)
Hãy đảm bảo rằng, trước khi tôi bắt đầu, các bạn phát khởi động cơ Bồ đề tâm thù thắng, tâm giác ngộ quý báu.
(Xem: 1374)
Tobgyal Rinpoche[1] được thỉnh cầu nói về các Bardo (những trạng thái chuyển tiếp), một nét đặc trưng độc đáo của giáo lý Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 1163)
Hãy phát khởi động lựchành vi đúng đắn, nghĩ rằng tôi phải tạo lợi lạc cho tất cả chúng sanh bao la như không gian,
(Xem: 2468)
Tôn giả Longchen Rabjam (1308-1363) sinh ra ở Yoru thuộc phần phía Đông của miền Trung Tây Tạng, gần Tu viện Samye vĩ đại mà Đạo Sư Liên Hoa Sinh xây dựng vào thế kỷ tám.
(Xem: 1866)
Có nhiều vị Tôn trên thế gian này và Phổ Ba Kim Cương là một trong số đó. Thực hành về Ngài được biết đến là “thực hành Phổ Ba Kim Cương để ...
(Xem: 3559)
Từ năm lên ba, Lama Drimed Rinpoche đã bày tỏ niềm tin và sự yêu thích đáng kinh ngạc với Phật Pháp.
(Xem: 1687)
Đức Shechen Rabjam thứ nhất – Tenpe Gyaltsen sinh năm 1650, năm Kim Dần của chu kỳ sáu mươi năm thứ mười một.
(Xem: 2622)
Geshe Ngawang Dhargyey (1921-1995) sinh ra ở vùng Trehor thuộc Kham, phía đông của Tây Tạng và học ở Tu viện Dhargyey địa phương cho đến khi 18 tuổi.
(Xem: 2394)
Này Tashi Lhamo[2] thành kính, nếu con muốn đạt giác ngộ, Hãy suy nghĩ xem thật khó khăn làm sao mới có được thân người tự dothuận duyên này.
(Xem: 2047)
Nhìn chung, chúng ta có thể nói rằng có hai phần trong truyền thừa Barom Kagyu: truyền thừa truyền miệng dài và truyền thừa ngắn của linh kiến sâu xa.
(Xem: 3002)
Khi cặp vợ chồng từ tộc Drenka ở Penyul trở thành cha mẹ tự hào của một người contrai vào năm 1127, họ đặt tên cậu bé theo một Kinh điển:
(Xem: 2092)
Ngài Drapa Ngonshe sinh vào năm Thủy Tý đực (tức năm 1012 Dương lịch) với cha là ông Zhangtag Karwa, người đã đặt tên Ngài là Taktsab.
(Xem: 2418)
Ngài Phakmodrupa Dorje Gyalpo sinh năm 1110 và được nuôi dưỡng bởi cha mẹ nghèo khó ở phía Nam của Kham.
(Xem: 1855)
Từ quan điểm chiêm tinh, tháng Thân linh thiêng tương ứng với tháng 5 Âm lịch Tây Tạng. Ngài Terdak Lingpa[3], em trai[4] và Đức Dalai Lama thứ Năm ...
(Xem: 1745)
Theo các tiểu sử, Bà Mandarava là một công chúa thông tuệ, thiện lành và xinh đẹp, sinh ra trong một gia đình hoàng gia ở Zahor,
(Xem: 2479)
Khandro Tare Lhamo sinh năm Thổ Dần 1938 trong thung lũng Bokyi Yumolung của vùng du mục Golok.
(Xem: 1550)
Sera Khandro Kunzang Dekyong Wangmo sinh ra trong một gia đình giàu có, quyền lực về chính trị ở Lhasa.
(Xem: 2855)
Bà Jetsun Jampa Chokyi sinh vào ngày 30 tháng 12 năm Thủy Tuất (1922). Cha Bà, Sonam Tobgyal, xuất thân từ gia đình...
(Xem: 1915)
Dưới chân đạo sư, con đỉnh lễ. Nhớ về vô thường và cái chết, Đẩy lui bám chấp với đời này và trưởng dưỡng xả ly –
(Xem: 3836)
Đức Riwoche Jedrung thứ bảy – Jampa Jungne sinh năm 1856 trong gia đình Shol Danak của Tu viện Riwoche ở Kham,
(Xem: 2154)
Sau đây là ảnh hưởng từ hành vi của bạn tốt: Đồng hành cùng vị uyên bác giúp tăng trưởng sự thông tuệ. Đồng hành cùng vị bi mẫn giúp đánh thức Bồ đề tâm.
(Xem: 1998)
Thân người tự dothuận duyên này mà con đã có được. Cung cấp nền tảng để đạt được hỷ lạc vĩnh cửu.
(Xem: 2546)
Từng có một học trò, người đến gặp đạo sư để thỉnh cầu chỉ dẫn. Vị đạo sư sắp rời đi và đang vội nhưng Ngài vẫn chấp nhận lời thỉnh cầu.
(Xem: 4528)
Bản văn này được Orgyen Tobgyal Rinpoche mạnh mẽ khuyến khích với những vị mong muốn làm sâu sắc sự hiểu của họ về thực hành Sur[1].
(Xem: 1963)
Đầu tiên trong sáu ba la mật, bố thí ba la mật, không phải chỉ là về trao cho người nghèo.
(Xem: 2854)
Nhìn chung, những điểm then chốt để thấu triệt giáo lý của Phật là: Được thúc đẩy bởi sự xả ly và Bồ đề tâm, Tránh ác hạnhnỗ lực làm các thiện hạnh,
(Xem: 1676)
Đầu tiên, bởi thân người này – sự hỗ trợ cho các phẩm tính của giải thoát – khó được, chúng ta phải hướng các ý nghĩ rời khỏi những vấn đề của đời này.
(Xem: 2581)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 2662)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 2065)
Liều thuốc giải cho ảo tưởng, bản ngã và từng vấn đề khác mà chúng ta đối mặt là trí huệ của Pháp;
(Xem: 3647)
Khi bắt đầu thiền định, một trong những cách thức để tăng trưởng Bồ đề tâmlòng bi mẫnthực hành cho và nhận
(Xem: 3103)
Thực hành chính yếu mà thầy tiến hành trong tù ngục là Tong-len (cho và nhận). Khenpo Munsel[1] đã trao cho thầy nhiều chỉ dẫn khẩu truyền đặc biệt về Tong-len, điều không có trong bản văn.
(Xem: 2030)
Bardor Tulku Rinpoche sinh năm 1949 ở Kham, miền Đông Tây Tạng. Từ rất nhỏ, Ngài đã được Đức Gyalwang Karmapa thứ 16 công nhậnhóa hiện thứ ba của Terchen Barway Dorje[1].
(Xem: 2079)
Môn đồ Nyingma của Chân ngôn Bí mật nhấn mạnh vào Mật điển thực sự[2]. Họ theo đuổi tri kiến cao nhất và ham thích hành vi ổn định.
(Xem: 2405)
Con đỉnh lễ đạo sư và đấng bảo hộ Văn Thù Sư Lợi! Trước tiên, hãy quy y Tam Bảo,
(Xem: 2106)
Một vị khác đã nghe những chỉ dẫn về cách tiếp cận Dzogchen Đại Viên Mãn từ Adzom Drukpa Rinpoche Drodul Pawo Dorje
(Xem: 1946)
Bopa Tulku Dongak Tenpe Nyima là một đệ tử của Kunpal Rinpoche[2], vị giữ gìn truyền thống thanh tịnh của Jamgon Mipham Rinpoche
(Xem: 2488)
Tôi, Pema Tsewang Lhundrup, đã chào đời trong năm Kim Mùi của chu kỳ lịch thứ mười sáu (tức năm 1931).
(Xem: 2165)
Khunkhen Pema Karpo là một trong những vị tổ dòng Phật giáo Drukpa Kayu ở miền xứ Tuyết.
(Xem: 2186)
Đạo sư vô song, Phật Thế Tôn; Giáo Pháp linh thiêng, thù thắng và chẳng dối lừa;
(Xem: 2609)
Mọi người đã đưa ra nhiều câu hỏi liên quan đến ý nghĩa của quy y và vì lý do đó, thầy đã thiết kế thẻ quy y mới này.
(Xem: 3679)
Nếu thời gian của con trong khóa nhập thất được sử dụng tốt, con sẽ làm hài lòng chư Phật cùng những vị trưởng tử, giúp hoàn thành...
(Xem: 2257)
Điều này được gửi đến những vị đang trong khóa nhập thất ba năm tại Pháp.
(Xem: 3353)
Sau khi phát khởi Bồ đề tâm trong Mật thừa và thọ nhận một quán đỉnh, người ta bước qua cánh cửa dẫn vào thực hành Mật thừa.
(Xem: 3038)
Một số đạo hữu đã yêu cầu thầy giải thích ý nghĩa của đai thiền định. Nói chung, đai thiền định được sử dụng bởi Tổ Milarepa khi thực hành Sáu Du Già Của Naropa.
(Xem: 5315)
Phật Thế Tôn đã giảng dạy bản văn sau đây, điều đem đến lợi lạc trong thời kỳ đen tối.
(Xem: 2652)
Om Ah Hung. Hôm nay, thầy có được cơ hội tuyệt vời để chia sẻ đôi lời về giới quy y.
(Xem: 3931)
Terton Lerab Lingpa Trinle Thaye Tsal vĩ đại, tức Terton Sogyal, là hóa hiện về thân của Tổ Nanam Dorje Dudjom[1], hóa hiện về khẩu của Kim Cương Hợi Mẫuhóa hiện về ý của Đại Sư Liên Hoa Sinh.
(Xem: 5349)
Hôm nay, chúng ta đều đã đến Vườn Cấp Cô Độc ở thành Xá Vệ, Ấn Độ, vùng đất của chư Thánh giả, nơi đã được cúng dường lên Đức Phật.
(Xem: 3889)
Điều đầu tiên mà bạn cần hiểu là mọi hữu tình chúng sinh đang sống trên thế giới này – ‘hữu tình chúng sinh của tam giới của sự tồn tại’ – là một sản phẩm của tâm.
(Xem: 2814)
Khi chúng ta nhìn vào hiện tượng vật chất trong thế giới này, chúng ta thấy rằng tất cả mọi sự vật hiện tượng xảy ra đều có nguyên nhân của nó.
(Xem: 2540)
Guru Rinpoche chào đời tám năm sau khi Đức Phật nhập diệt. Khi Đức Phật nhập diệt, Ngài sách tấn các đệ tử hãy hoan hỷ bởi Ngài sẽ trở lại là Guru Rinpoche.
(Xem: 2757)
Gần đây, nhiều người hỏi về Khandro Rinpoche tôn quý và những hoạt động tâm linh của Bà.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant