Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Câu Chuyện Cuộc Đời Tổ Jigme Lingpa

02 Tháng Năm 201907:24(Xem: 3217)
Câu Chuyện Cuộc Đời Tổ Jigme Lingpa
Câu Chuyện Cuộc Đời Tổ Jigme Lingpa


Nyoshul Khen Rinpoche[1] giảng
Pema Jyana dịch Việt

Câu Chuyện Cuộc Đời Tổ Jigme Lingpa

 

Trì Minh Vương hay Vidyadhara tối thắng Rigdzin Jigme Lingpa (1729-98) sinh ở Yoru, Tây Tạng trong một vùng vô cùng khiêm nhường. Đó là thời điểm mà tri kiếnthực hành về các giáo lý Đại Viên Mãn Dzogchen đang trở nên sai lạc bởi những giả địnhsuy đoán mang tính lý thuyết đơn thuần. Tổ Jigme Lingpa được xem là một hóa hiện của Ngài Manjushrimitra – đạo sư Dzogchen Ấn Độ, vị đệ tử căn bản của đạo sư Dzogchen nguyên thủy – Tổ Garab Dorje. Ngài Jigme Lingpa cũng là hóa hiện của Tôn giả Longchen Rabjam Drimey Ozer (1308-63). Sự chào đời của Ngài phù hợp với một tiên tri của Đại Sư Liên Hoa Sinh, như chúng ta thấy trong đoạn kệ này trong lời tán thán Tổ Jigme Lingpa từ pho giáo lý kho tàng (Terma) Hiện Thân Chứng Ngộ Của Đạo Sư (Lama Gongdu):

“Đấng Toàn Tri, cội nguồn bi mẫn dành cho chúng sinh,

Hóa thân Vô Cấu Quang, kế thừa kho tàng Ter-ma tâm,

Yo-gi như hư không của cõi bao la tịnh quang,

Chí thành cầu khẩn trước Tôn giả Jig-me Ling-pa.”

Lên sáu tuổi, Tổ Jigme Lingpa gia nhập Tu viện Palri Thegchog Ling ở miền Nam Tây Tạng, tại thung lũng Chongye, gần nơi sinh của Ngài. Ở Palri, Ngài thọ nhận sự giáo dục tu viện phổ quát và bước vào con đường Kim Cương thừa. Mười ba tuổi, Ngài nhận được sự chỉ dẫn từ đạo sư thành tựu Thugchok Dorje Tsal, con trai của Terton Tsasum Lingpa vĩ đại. Từ Ngài Thugchok Dorje Tsal, Tổ Jigme Lingpa thọ nhận các quán đỉnhchỉ dẫn về pho [giáo lý] kho tàng Bindu Giải Thoát: Tự Nhiên Giải Thoát Của Tâm Giác Ngộ (Drolthig Gongpa Rangdrol), một Terma của Terton Sherab Ozer (1518-84), vị cũng được biết đến là Drodul Lingpa. Đó là truyền thống được tuân theo tại Tu viện Palri Thegchog Ling và Tổ Jigme Lingpa đã dành mười hai năm để làm chủ những chỉ dẫn sâu xa này. Ngoài việc học hỏi thơ ca và thực hành giáo lý Bindu Giải Thoát, Ngài không tiến hành nghiên cứu mở rộng.

Hai mươi tám tuổi, Tổ Jigme Lingpa tiến hành nhập thất ba năm (1756-59) trong vùng lân cận Tu viện của Ngài ở Chongye Palgi Riwo, thực hành pho giáo lý Bindu Giải Thoát. Ngài viết về khóa nhập thất này trong một bản văn thuộc pho [giáo lý] kho tàng mà Ngài phát lộTâm Yếu Của Cõi Giới Bao La (Longchen Nyingthig). Trong Longchen Nyingthig, theo sau bản văn chỉ dẫn Dzogchen nổi tiếngTrí Tuệ Thù Thắng (Yeshe Lama), có một lời khuyên từ thể loại được biết đến là “Pháp Sơn” (Richo) gọi là Đại Dương Lời Khuyên Tuyệt Diệu Để Thực Hành Nhập Thất Cô Tịch. Chính trong giáo lý này, Tổ Jigme Lingpa nói với chúng ta về khóa nhập thất ba năm đầu tiên của Ngài, nhắc đến rằng trong ba năm ấy, Ngài không nói một từ nào với bất kỳ ai. Ngài chỉ có những nhu yếu phẩm tối thiểu, chỉ đủ thức ăn để sống sótvừa đủ y áo để giữ ấm.

Tổ Jigme Lingpa miêu tả nhịp điệu thực hành của Ngài trong suốt chu kỳ ngày đêm, vạch ra lối thực hành mà Ngài đã tuân thủ. Ngài thường bắt đầu một ngày bằng các thực hành sơ khởi, cầu khẩn với lòng sùng mộ chí thành, mãnh liệt. Sau đó, Ngài thiền định về thực hành du già kinh mạch và năng lượng trọng yếu (Tsalung), rồi tiếp tục các thời khóa tiếp theo trong ngày, khi mà Ngài thực hành Đạo Sư Du Già, các giai đoạn phát triểnhoàn thiện trong Bổn Tôn Du Già, du già giấc ngủ và các du già phụ trợ.

Chính vào đầu khóa nhập thất ba năm đầu tiên này, năm hai mươi tám tuổi, Tổ Jigme Lingpa thọ nhận những phát lộ kho tàng Terma về Tâm Yếu Của Cõi Giới Bao La. Đi ngủ sau khi chí thành cầu khẩn Đại Sư Liên Hoa Sinh, Ngài bước vào Tịnh quang của giấc ngủ. Trong đó, Tổ Jigme Lingpa có một linh kiến về việc bay đến bảo tháp Boudha vĩ đại ở Nepal; tại đây, Ngài thọ nhận kho tàng Terma Tâm Yếu Của Cõi Giới Bao La từ chư Không Hành Nữ. Toàn bộ các giáo lý Longchen Nyingthig tuôn trào trong tâm Tổ Jigme Lingpa và sự chứng ngộ trí tuệ vĩ đại bừng sáng.

Trong và sau khóa nhập thất ba năm đầu tiên này, Tổ Jigme Lingpa nghiên cứu những trước tác của Tôn giả Longchenpa, chẳng hạn Ba Bộ An Trú Trong Sự Thoải Mái (Ngalso Korsum), Bảy Kho Tàng (Dzod-dun) và Bốn Phần Tâm Yếu (Nyingthig Yabzhi). Nhờ đọc tất cả những tác phẩm then chốt của Tôn giả Longchenpa, Tổ Jigme Lingpa nhận ra rằng Tôn giả Longchen Rabjam thực sự là một bậc giác ngộ. Ngài khởi lên một lòng sùng mộ mãnh liệt với Tôn giả Longchenpa, thề rằng Ngài sẽ không bao giờ từ bỏ những nỗ lực hành trì Giáo Pháp cho đến khi diện kiến Tôn giả Longchenpa dù phải đánh đổi thân thể và mạng sống của Ngài. Quyết định rằng Ngài phải hoàn thành và gặp gỡ Tôn giả Longchenpa nhờ cầu nguyện, cầu khẩnĐạo Sư Du Già (Lama Naljor), Tổ Jigme Lingpa bắt đầu một khóa nhập thất ba năm thứ hai tại Samye Chimpu, phía trên Tu viện Samye vĩ đại ở miền Trung Tây Tạng. Samye Chimpu là nơi mà Đại Sư Liên Hoa Sinh và hai mươi lăm đệ tử của Ngài cùng thực hành nhập thất và nơi mà những đệ tử của đạo sư Dzogchen Ấn ĐộTôn giả Vimalamitra duy trì nhập thất.

Tổ Jigme Lingpa đã nhập thất tại Chimpu. Ngài bắt đầu khóa nhập thất trong Động Thượng Nyang và sau đó nhanh chóng đến một hang động gần đó được biết đến là “Động Hạ Nyang”. Chính tại nơi này mà đạo sư Nyang Tingzin Zangpo vĩ đại đã thực hành như một đệ tử của đạo sư Dzogchen Ấn ĐộTôn giả Vimalamitra. Hang động này cũng được biết đến là Động Hoa Đại Mật (Sangchen Metog Puk) và Tổ Jigme Lingpa đã sống tại đó trong ba năm để nhập thất nghiêm ngặt.

Tổ Jigme Lingpa duy trì quanh năm trong động này, nơi mà thực sự chẳng gì khác hơn một phần đá nhô ra. Bởi nó không phải kiểu hang động mà người ta có thể bước vào và trú ngụ bên trong, Tổ Jigme Lingpa làm vài bức tường che từ cành cây và vải. Ngài nói rằng khi trời mưa, nước sẽ chảy xuống, làm ướt hết vải. Tổ Jigme Lingpa đã thực hành ở đó trong ba năm, liên tục cầu khẩn Tôn giả Longchenpa với lòng sùng mộ chí thành, mãnh liệt. Ngài có được phước báu lớn lao khi sở hữu một trong những bức tượng “Trông Giống Ta” được làm giống hệt Tôn giả Longchenpa và do chính Tôn giả ban phước, thứ mà Tổ Jigme Lingpa dùng như một Pháp khí hành trì.

Ngày nọ, Tổ Jigme Lingpa trải qua linh kiến đầu tiên trong ba linh kiến về Tôn giả Longchenpa, vị xuất hiện phía trên trước mặt Tổ Jigme Lingpa trong bầu trời quang, đắp ba y tu sĩxuất hiện trong hình tướng hoàn hảo và hơi lớn tuổi. Cuối cùng cũng được diện kiến Tôn giả Longchenpa sau nhiều năm chí thành cầu khẩn chính là hoàn thành những mong ước sâu xa nhất trong tim Ngài, giống như thương nhân cuối cùng kiếm được kho tàng đã tìm kiếm bấy lâu. Lúc này, Tôn giả Longchenpa nói với Tổ Jigme Lingpa rằng, “Cầu mong sự trao truyền tâm trí tuệ của ý nghĩa cần được diễn tả được trao truyền. Mong nó được trao truyền. Mong sự trao truyền của từ ngữ diễn tả được hoàn thành. Mong nó được hoàn thành!”. Nhờ sự gia trì từ cuộc gặp gỡ này với thân trí tuệ của Tôn giả Longchenpa, vô số phẩm tính từ sự chứng ngộ giác ngộ của Tôn giả Longchenpa sinh khởi trong tâm của Tổ Jigme Lingpa.

Trong năm thứ hai của khóa nhập thất ấy, Tổ Jigme Lingpa nhập thất trong Động Hạ Nyang và được ban phước gia trì bởi linh kiến thứ hai về Tôn giả Longchenpa. Trong dịp này, Tôn giả Longchenpa không có một hình tướng đặc biệt rõ rệt có thể thấy được với Tổ Jigme Lingpa. Tôn giả Longchenpa đặt một bản văn trên đầu của Tổ Jigme Lingpa và trao cho Ngài, bảo rằng, “Điều này làm sáng tỏ ý nghĩa được tìm thấy trong tác phẩm Cỗ Xe Vĩ Đại của Ta. Con phải viết một luận giải về nó và điều này sẽ làm lợi lạc nhiều chúng sinh”.

Cỗ Xe Vĩ Đạiluận giải bao la của Tôn giả Longchenpa về tác phẩm An Trú Trong Sự Thoải Mái Về Bản Tính Tâm (Semnyid Ngalso) của Ngài. Với linh kiến thứ hai về Tôn giả Longchenpa này, Tổ Jigme Lingpa thọ nhận ân phước gia trì từ khẩu của Tôn giả. Nhờ đó, mọi nút thắt vi tế trong luân xa cổ họng của Ngài được giải phóngsức mạnh của khẩu trí tuệ bừng nở. Tổ Jigme Lingpa thọ nhận sự gia trì của Tôn giả Longchenpa để biên soạn các tác phẩm về Giáo Pháp. Theo những mong ước của Tôn giả Longchenpa, Tổ Jigme Lingpa sau đó biên soạn tác phẩm nổi tiếng của Ngài – Kho Tàng Những Phẩm Tính Quý Báu (Yonten Dzod) để làm sáng tỏ ý nghĩa của Cỗ Xe Vĩ Đại.

Trong năm nhập thất thứ ba, Tổ Jigme Lingpa có linh kiến khác về Tôn giả Longchenpa, vị xuất hiện trong thân tướng trẻ trung, khoảng hai mươi tuổi, đắp y áo của một tu sĩ học giả và đội mũ nhọn với phần che tai dài của một học giả. Với linh kiến này, Tổ Jigme Lingpa được ban phước với sự chứng ngộ từ tâm trí tuệ của Tôn giả Longchenpa và tâm Ngài hòa làm một với tâm giác ngộ của Tôn giả. Nhờ đó, sức mạnh của trí tuệ và sự thông tuệ của Tổ Jigme Lingpa được tăng cường lớn lao và Ngài tự nhiên thông hiểu tất cả Kinh điểnMật điển, các luận giải Mật thừa và những chỉ dẫn khẩu truyền.

Tổ Jigme Lingpa đã đạt được sự chứng ngộthành tựu lớn lao nhờ thực hành Đạo Sư Du Già và thọ nhận ân phước gia trì. Trước đó trong khóa nhập thất của Tổ Jigme Lingpa ở Chimpu, trước ba linh kiến của Ngài về Tôn giả Longchenpa, Ngài đã thọ nhận Thực Hành Đạo Sư Tinh Túy Niêm Kín (La-drub Thigle Gyachen). Tổ Jigme Lingpa có một linh kiến rằng nghi lễ Mandala đang được cử hànhTinh Túy Niêm Kín (Thigle Gyachen) khởi lên trong sâu thẳm tim Ngài. Bây giờ, chúng ta thấy thực hành này, điều mà Ngài thọ nhận nhờ ân phước gia trì của Tôn giả Longchenpa, trong pho giáo lý Longchen Nyingthig. Tổ Jigme Lingpa viết rằng trong khóa nhập thất này ở Samye Chimpu, ý nghĩa của Ba Cỗ Xe (Shingta Sum) và Bảy Kho Tàng, các trước tác của Tôn giả Longchenpa, khởi lên trong tim Ngài. Ngài nói với chúng ta rằng nhờ đó, Ngài viết nhiều điểm then chốt về các chỉ dẫn, giáo lý trọng yếu liên quan đến tri kiếnthiền định và điểm cốt yếu của thực hành trong các tác phẩm ngắn gọn. Chúng bao gồm Sư Tử Hống Đánh Bại Sự Sai Trệch Và Sai Sót (Seng-ge’i Nga-ro), điều mà sau này, chúng ta sẽ thảo luận trong những giáo lý thêm nữa.

Nhờ gia trì Tổ Jigme Lingpa bằng trao truyền Thực Hành Đạo Sư Tinh Túy Niêm Kín, Tôn giả Longchenpa đang nói rằng, “Nếu ai đó muốn gặp gỡ Ta, giống như mong muốn của con, họ có thể làm vậy nhờ thực hành Đạo Sư Tinh Túy Niêm Kín này. Nhờ quán tưởngcầu nguyện đến Ta với lòng sùng mộ chí thành, thiền định về Ta là bất khả phân với Đạo Sư Vimalamitra, họ có thể thực sự thấy Ta, nghe những lời dạy của Ta hay gặp Ta trong những giấc mơ. Nhờ ân phước gia trì của những cuộc gặp gỡ như vậy, kiến thức của người học trò sẽ tự nhiên tăng trưởngđặc biệt, sự chứng ngộ về Dzogpa Chenpo của anh hay cô ấy sẽ trở nên bao la như bầu trời”.

Nhìn chung, nếu con mong muốn thiền định về Bổn tôn, chẳng hạn Kim Cương Thời Luân hay Kim Cương Phổ Ba, để có thể hoàn thành Bổn tôn đó và đạt chứng ngộ nhờ thực hành, con cần trước tiên thọ nhận quán đỉnh. Sau đó, con cần trải qua tất cả mọi thực hành chi tiết về các giai đoạn phát khởihoàn thiện. Con cần thiền định và đó là một quá trình rất tỉ mỉ. Trái với cách tiếp cận Bổn Tôn Du Già, “thực hành đạo sư” (la-drub) về Đạo Sư Du Già là một nét đặc biệt về cách tiếp cận Đại Viên Mãn Dzogchen, khi mà đạo sư được xem là “ngọc báu” duy nhất “đại diện cho tất cả”. Tất cả cội nguồn quy y, chẳng hạn Tam Bảo, Tam Gốc và Tam Thân, cùng với tất cả chư vị giác ngộ, đều hiện thân trong hình tướng đạo sư. Điều này khiến cho phương pháp trở nên đơn giản hơn nhiều, với ít hơn nhiều các chi tiếtphương pháp tỉ mỉ.

Lòng sùng mộ là một trong những điểm then chốt trọng yếu được nhắc đến trong các Mật điển Dzogchen. Nếu người ta có kiểu niềm tin và lòng sùng mộ mà nhờ đó họ có thể thấy đạo sưhiện thân của tất cả chư Phật, thì cách tiếp cận này rất đơn giản nhưng cũng sâu xa nhất. Thực hành Đạo Sư Tinh Túy Niêm Kín [La-drub Tigle Gyachen] ban tặng ân phước gia trì nhanh chóng, thứ có sức mạnh ban sự chứng ngộgiác ngộ chỉ nhờ lòng sùng mộ đạo sư mà không cần trải qua những phức tạp trong thực hành Bổn Tôn Du Già. Đây là nét độc đáo của thừa thứ chín – Dzogchen hay Atiyoga, như được giải thích bởi Khenpo Ngaga, hay Ngài Ngawang Palzang, trong bình giảng của Ngài về Lời Vàng Của Thầy Tôi của Patrul Rinpoche. Nhờ ân phước gia trì của thực hành Đạo Sư, sự chứng ngộ có thể nhanh chóng sinh khởi trong tâm. Thực hành Đạo Sư (la-drub) hoàn thành tinh túy của đạo sư và là sự tăng cường cho mọi kiểu thực hành Giáo Pháp khác. Đó cũng là một phương thuốc cho mọi kiểu chướng ngạihành giả có thể đối mặt trên con đường tâm linh.

Một đạo sư Kagyu – Ngài Gyalwa Yang Gon (1213-87) tuyên bố rằng Ngài đã không thiền định về Kim Cương Hỷ (Hevajra) xanh dương, một trong những Bổn tôn Kagyu chính yếu và Bổn tôn chính được thực hành bởi Tổ Marpa, vị sáng lập truyền thống Kagyu. Ngài nói rằng Ngài cũng chẳng thiền định về Lục Độ Mẫu như truyền thống Kadampa thực hành. Thay vào đó, nhờ đơn giản nỗ lực trong thực hành Đạo Sư, bằng cách thiền định về lòng sùng mộ mãnh liệt với Bổn Sư, mọi thành tựu (siddhi) và sự chứng ngộ của Ngài khởi lên. Đức Gyalwa Yang Gon bảo rằng Ngài chẳng bận tâm xem Kim Cương Hỷ thì xanh dương hay Độ Mẫu Tara thì xanh lá, nói rằng, “Ta không cần phải thiền định về chư vị, bởi nhờ hoàn toàn thiền định về Bổn Sư của Ta, cầu nguyện với lòng sùng mộ, tất cả những chứng ngộ của Ta sinh khởi”.

Hơn thế nữa, đệ tử của Tổ Milarepa – Ngài Gampopa (1079-1153) nói trong tiểu sử của Ngài rằng vào thời đại suy đồi trong tương lai, chúng sinh sẽ không có khả năng chứng ngộ ý nghĩa chân chính của Đại Thủ Ấn. Ngài nói rằng khi ấy, một phương pháp chữa lành tình cảnh này là nhất tâm cầu nguyện đến Ngài. Đức Gampopa nói nhờ gặp gỡ Ngài thông qua sức mạnh của lòng sùng mộ, những chúng sinh trong thời kỳ này sẽ có thể sinh khởi sự chứng ngộ Đại Thủ Ấn.

Đại thành tựu giả Lama Zhang Rinpoche (1122-93), một đệ tử của Đức Gampopa, cũng nói về những chỉ dẫn để chứng ngộ ý nghĩa của Đại Thủ Ấn rằng, “Ở Tây Tạng ngày nay, vài chỉ dẫn khuyên rằng thiền địnhduy trì trong sự cân bằng về tính Không. Một số nói rằng thiền địnhan trú trong sự sáng tỏ của tâm và số khác nói thiền định là an trụ trong hỷ lạc. Cũng có nhiều chỉ dẫn khác nhau về cách thức thiền định. Nhưng với Ta, không có cách thiền định nào sâu xa hơn nhờ lòng sùng mộ. Dẫu vậy, ngày nay, rất ít người tin rằng có thể giải thoát nhờ sức mạnh của lòng sùng mộ”.

Sau khi hoàn thành khóa nhập thất này, Tổ Jigme Lingpa đi hành hương khắp miền Trung Tây Tạng đến tất cả những thánh địa thành tựu, chỉ mang theo một túi nhỏ và đi khất thực. Tại mỗi thánh địa này, Ngài thiền địnhthực hành. Hành động của Ngài giống như những lời của đạo sư Nyingma cổ xưa – Tổ Zurchungpa, “Vị ấy giống như đứa con của núi non, mặc y áo sương mù”. Dòng này của Tổ Zurchungpa nghĩa là vị Yogi sống xa thị trấn và duy trì sự cô tịch của núi non.

Tổ Jigme Lingpa đã chứng ngộ Pháp thân vì lợi ích của bản thân Ngài, vì thế xuất hiện một điềm báo chỉ ra rằng đã đến thời điểm Ngài giảng dạy Giáo Pháp và làm lợi lạc chúng sinh khác. Vào ngày Mười tháng Thân năm Mộc Thân Đực 1764, trong lễ cúng dường tiệc, Guru Rinpoche và một tập hội Không Hành Nữ xuất hiện trước Tổ Jigme Lingpa. Với ân phước gia trì bi mẫn của Guru Rinpoche và sự hội tụ của những hoàn cảnh cát tường, chẳng hạn năm sự chắc chắn của địa điểm linh thiêng, đạo sư, đoàn tùy tùng, giáo lýthời gian, Tổ Jigme Lingpa nhận ra rằng thời điểm đã chín muồi để Ngài giảng dạy pho Longchen Nyingthig. Tổ Jigme Lingpa đầu tiên hệ thống hóa lại thực hành Đạo Sư bên ngoài – Tập Hội Trì Minh (Ladrub Rigdzin Dupa) và sau đó dần dần viết lại và sắp xếp các nghi quỹ Tam Gốc cùng nhiều thực hành khác.

Tổ Jigme Lingpa có bốn đệ tử chính yếu, các tâm tử của Ngài, những vị đã hoằng dương giáo lý của Ngài trên khắp Tây Tạng. Họ là bốn vị tên là “Jigme” hay “Vô Úy”: Dodrub Jigme Trinlay Ozer, Trama Lama Jigme Gyalwai Nyugu, Lama Jigme Kundrol Namgyal và Lama Jigme Ngotsar Tenzin. Như thế, truyền thống Longchen Nyingthig trở nên nổi tiếng khắp Tây Tạng. Hoàng gia Derge ở miền Đông Tây Tạng đã bảo trợ việc xuất bản tuyển tập trước tác của Tổ Jigme Lingpa. Họ cũng bảo trợ việc xuất bản Tuyển Tập Mật Điển Nyingma (Nyingma Gyubum), điều mà Tổ Jigme Lingpa đã thu thập, sắp xếp, giới thiệu và giám sát việc xuất bản. Những bản khắc gỗ của các bản in này vẫn còn tồn tại ở Nhà In Derge cho đến tận hôm nay, nơi mà nhiều tác phẩm vĩ đại hiện vẫn còn.

Cuối cùng, Tổ Jigme Lingpa sống ở Tsering Jong trong thung lũng Donkhar ở Chongye, miền Nam Tây Tạng, nơi Ngài thiết lập một ngôi chùa và tiếp tục trao truyền cam lồ của những chỉ dẫn ẩn giấu cho nhiều chúng sinh may mắn. Ngoài tất cả những tác phẩm trong pho [giáo lý] kho tàng Tâm Yếu Của Cõi Giới Bao La của Tổ Jigme Lingpa, Ngài cũng biên soạn nhiều tác phẩm khác. Chúng bao gồm Kho Tàng Những Phẩm Tính Quý Báugiáo lý được biết đến là Lời Đáp Cho Những Câu Hỏi Về Thiền Định (Gom Chok Drilen), một tuyển tập lời khuyên mà Tổ Jigme Lingpa ban cho các đệ tử của Ngài về thiền địnhhành trì. Cũng có Tuyển Tập Pháp Thoại (Tam Tsok), một bộ những lời khuyên phổ quát mà Ngài trao cho nhiều người khác nhau và Tuyển Tập Tán Thán (Tod Tsok) – một bộ những lời tán thán Đức Phật, Tôn giả Longchenpa cùng nhiều vị khác. Tựu chung lại, tuyển tập trước tác của Tổ Jigme Lingpa gồm chín quyển.

Tại Tsering Jong, Tổ Jigme Lingpa chủ yếu giảng dạy những phát lộ Terma và trước tác của Ngài từ pho Longchen Nyingthig cũng như các tác phẩm của Đấng Tổ Phụ Toàn Tri Longchen Rabjam; Tôn giả Longchenpa và Tổ Jigme Lingpa được biết đến là “cha và con toàn tri”. Tổ Jigme Lingpa duy trì một cuộc đời giản dị và trao truyền giáo lý của Ngài cho dòng chảy liên tục các chúng sinh may mắn thân cận Ngài. Trong số những hoạt động mở rộng, Tổ Jigme Lingpa có niềm yêu thích lớn lao với việc cứu mạng động vật – những con vật sắp bị giết mổ hay những con bị thợ săn bắt.

Khi Tổ Jigme Lingpa sắp viên tịch, các đệ tử thân thiết của Ngài hỏi rằng họ có thể trợ giúp gì vào thời điểm Ngài viên tịch. Ngài đáp rằng, “Ta chẳng cần sự giúp đỡ nào bởi Ta sắp đi thẳng đến Liên Hoa Quang. Tuy vậy, các con có thể thì thầm bên tai Ta và nói rằng, ‘Giờ là lúc Ngài đến Núi Màu Đồng’. Đó là tất cả những gì con cần làm”. Năm 1798, bước sang tuổi bảy mươi và đã phụng sự Giáo Phápvô số chúng sinh, Tổ Jigme Lingpa xả bỏ thân vật lý. Giữa những dấu hiệu tuyệt diệu, Ngài đến Liên Hoa Quang Chamara, Núi Màu Đồng (Zangdog Palri), cõi thanh tịnh của Đại Sư Liên Hoa Sinh. Và như thế, Tổ Jigme Lingpa vượt qua mọi nỗi buồn để đạt giác ngộ, để lại di hài quý báu của Ngài tại Tsering Jong.

 

Nguồn Anh ngữ: Jigme Lingpa’s Life Story do David Christensen chuyển dịch Anh ngữ trong cuốn sách The Fearless Lion’s Roar.

Pema Jyana (Liên Hoa Trí) chuyển dịch Việt ngữ.

Nguyện cát tường!



[1] Theo Rigpawiki, Nyoshul Khen Rinpoche hay Nyoshul Khenpo Jamyang Dorje (1932-1999) là một đạo sư lỗi lạc của truyền thống Dzogchen và là một vị có thẩm quyền về những giáo lý của Tổ Longchenpa đến mức các đệ tử của Ngài xem Ngài là Đức Longchenpa bằng xương bằng thịt. Ngài là đạo sư của rất nhiều vị Lama thuộc thế hệ trẻ hơn, cũng như rất nhiều vị thầy Phật giáo phương Tây.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 188)
Ta sinh ra tại thung lũng thượng Dra ở Yoru, là con trai của Lobpon Tenpa Sung và Droza Sonam Gyen. Từ thuở nhỏ,
(Xem: 185)
Kính lễ đạo sư vinh quang, vị Thánh Tôn, Đấng viên thành mong ước thù thắng –
(Xem: 309)
Trong chuyến viếng thăm ngắn đến Hà Lan, Rinpoche được mời đến giảng dạy một tối về truyền thống Kim Cương thừa
(Xem: 651)
(1) Kính lễ bậc Chúa Tể (dòng họ) Thích Ca. Thân Ngài đản sanh từ vô lượng công đức, tướng hảo thù thắng. Lời Ngài làm thỏa mãn hy vọng của vô lượng chúng sanh.
(Xem: 660)
Trước khi chuyển di thần thức của người đã khuất, hãy bắt đầu bằng cách gọi tên họ số lần thích hợp.
(Xem: 775)
Nhìn chung, điều được gọi là Tâm Yếu Bốn Phần chủ yếu bao gồm những giáo lý của Tôn giả Vimalamitra [Vô Cấu Hữu],
(Xem: 751)
Khai thị của Kyabje Lama Zopa Rinpoche về tánh Không (shunyata) trong lễ quy y tại Trung Tâm Phật Giáo A Di Đà
(Xem: 1054)
Hãy đảm bảo rằng, trước khi tôi bắt đầu, các bạn phát khởi động cơ Bồ đề tâm thù thắng, tâm giác ngộ quý báu.
(Xem: 1276)
Tobgyal Rinpoche[1] được thỉnh cầu nói về các Bardo (những trạng thái chuyển tiếp), một nét đặc trưng độc đáo của giáo lý Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 1090)
Hãy phát khởi động lựchành vi đúng đắn, nghĩ rằng tôi phải tạo lợi lạc cho tất cả chúng sanh bao la như không gian,
(Xem: 2373)
Tôn giả Longchen Rabjam (1308-1363) sinh ra ở Yoru thuộc phần phía Đông của miền Trung Tây Tạng, gần Tu viện Samye vĩ đại mà Đạo Sư Liên Hoa Sinh xây dựng vào thế kỷ tám.
(Xem: 1768)
Có nhiều vị Tôn trên thế gian này và Phổ Ba Kim Cương là một trong số đó. Thực hành về Ngài được biết đến là “thực hành Phổ Ba Kim Cương để ...
(Xem: 3469)
Từ năm lên ba, Lama Drimed Rinpoche đã bày tỏ niềm tin và sự yêu thích đáng kinh ngạc với Phật Pháp.
(Xem: 1585)
Đức Shechen Rabjam thứ nhất – Tenpe Gyaltsen sinh năm 1650, năm Kim Dần của chu kỳ sáu mươi năm thứ mười một.
(Xem: 2531)
Geshe Ngawang Dhargyey (1921-1995) sinh ra ở vùng Trehor thuộc Kham, phía đông của Tây Tạng và học ở Tu viện Dhargyey địa phương cho đến khi 18 tuổi.
(Xem: 2309)
Này Tashi Lhamo[2] thành kính, nếu con muốn đạt giác ngộ, Hãy suy nghĩ xem thật khó khăn làm sao mới có được thân người tự dothuận duyên này.
(Xem: 1951)
Nhìn chung, chúng ta có thể nói rằng có hai phần trong truyền thừa Barom Kagyu: truyền thừa truyền miệng dài và truyền thừa ngắn của linh kiến sâu xa.
(Xem: 2911)
Khi cặp vợ chồng từ tộc Drenka ở Penyul trở thành cha mẹ tự hào của một người contrai vào năm 1127, họ đặt tên cậu bé theo một Kinh điển:
(Xem: 1978)
Ngài Drapa Ngonshe sinh vào năm Thủy Tý đực (tức năm 1012 Dương lịch) với cha là ông Zhangtag Karwa, người đã đặt tên Ngài là Taktsab.
(Xem: 2344)
Ngài Phakmodrupa Dorje Gyalpo sinh năm 1110 và được nuôi dưỡng bởi cha mẹ nghèo khó ở phía Nam của Kham.
(Xem: 1764)
Từ quan điểm chiêm tinh, tháng Thân linh thiêng tương ứng với tháng 5 Âm lịch Tây Tạng. Ngài Terdak Lingpa[3], em trai[4] và Đức Dalai Lama thứ Năm ...
(Xem: 1655)
Theo các tiểu sử, Bà Mandarava là một công chúa thông tuệ, thiện lành và xinh đẹp, sinh ra trong một gia đình hoàng gia ở Zahor,
(Xem: 2389)
Khandro Tare Lhamo sinh năm Thổ Dần 1938 trong thung lũng Bokyi Yumolung của vùng du mục Golok.
(Xem: 1467)
Sera Khandro Kunzang Dekyong Wangmo sinh ra trong một gia đình giàu có, quyền lực về chính trị ở Lhasa.
(Xem: 2780)
Bà Jetsun Jampa Chokyi sinh vào ngày 30 tháng 12 năm Thủy Tuất (1922). Cha Bà, Sonam Tobgyal, xuất thân từ gia đình...
(Xem: 1825)
Dưới chân đạo sư, con đỉnh lễ. Nhớ về vô thường và cái chết, Đẩy lui bám chấp với đời này và trưởng dưỡng xả ly –
(Xem: 3739)
Đức Riwoche Jedrung thứ bảy – Jampa Jungne sinh năm 1856 trong gia đình Shol Danak của Tu viện Riwoche ở Kham,
(Xem: 2073)
Sau đây là ảnh hưởng từ hành vi của bạn tốt: Đồng hành cùng vị uyên bác giúp tăng trưởng sự thông tuệ. Đồng hành cùng vị bi mẫn giúp đánh thức Bồ đề tâm.
(Xem: 1927)
Thân người tự dothuận duyên này mà con đã có được. Cung cấp nền tảng để đạt được hỷ lạc vĩnh cửu.
(Xem: 2462)
Từng có một học trò, người đến gặp đạo sư để thỉnh cầu chỉ dẫn. Vị đạo sư sắp rời đi và đang vội nhưng Ngài vẫn chấp nhận lời thỉnh cầu.
(Xem: 4420)
Bản văn này được Orgyen Tobgyal Rinpoche mạnh mẽ khuyến khích với những vị mong muốn làm sâu sắc sự hiểu của họ về thực hành Sur[1].
(Xem: 1870)
Đầu tiên trong sáu ba la mật, bố thí ba la mật, không phải chỉ là về trao cho người nghèo.
(Xem: 2781)
Nhìn chung, những điểm then chốt để thấu triệt giáo lý của Phật là: Được thúc đẩy bởi sự xả ly và Bồ đề tâm, Tránh ác hạnhnỗ lực làm các thiện hạnh,
(Xem: 1604)
Đầu tiên, bởi thân người này – sự hỗ trợ cho các phẩm tính của giải thoát – khó được, chúng ta phải hướng các ý nghĩ rời khỏi những vấn đề của đời này.
(Xem: 2499)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 2595)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 1998)
Liều thuốc giải cho ảo tưởng, bản ngã và từng vấn đề khác mà chúng ta đối mặt là trí huệ của Pháp;
(Xem: 3573)
Khi bắt đầu thiền định, một trong những cách thức để tăng trưởng Bồ đề tâmlòng bi mẫnthực hành cho và nhận
(Xem: 3021)
Thực hành chính yếu mà thầy tiến hành trong tù ngục là Tong-len (cho và nhận). Khenpo Munsel[1] đã trao cho thầy nhiều chỉ dẫn khẩu truyền đặc biệt về Tong-len, điều không có trong bản văn.
(Xem: 1957)
Bardor Tulku Rinpoche sinh năm 1949 ở Kham, miền Đông Tây Tạng. Từ rất nhỏ, Ngài đã được Đức Gyalwang Karmapa thứ 16 công nhậnhóa hiện thứ ba của Terchen Barway Dorje[1].
(Xem: 1985)
Môn đồ Nyingma của Chân ngôn Bí mật nhấn mạnh vào Mật điển thực sự[2]. Họ theo đuổi tri kiến cao nhất và ham thích hành vi ổn định.
(Xem: 2316)
Con đỉnh lễ đạo sư và đấng bảo hộ Văn Thù Sư Lợi! Trước tiên, hãy quy y Tam Bảo,
(Xem: 2023)
Một vị khác đã nghe những chỉ dẫn về cách tiếp cận Dzogchen Đại Viên Mãn từ Adzom Drukpa Rinpoche Drodul Pawo Dorje
(Xem: 1858)
Bopa Tulku Dongak Tenpe Nyima là một đệ tử của Kunpal Rinpoche[2], vị giữ gìn truyền thống thanh tịnh của Jamgon Mipham Rinpoche
(Xem: 2421)
Tôi, Pema Tsewang Lhundrup, đã chào đời trong năm Kim Mùi của chu kỳ lịch thứ mười sáu (tức năm 1931).
(Xem: 2079)
Khunkhen Pema Karpo là một trong những vị tổ dòng Phật giáo Drukpa Kayu ở miền xứ Tuyết.
(Xem: 2124)
Đạo sư vô song, Phật Thế Tôn; Giáo Pháp linh thiêng, thù thắng và chẳng dối lừa;
(Xem: 2530)
Mọi người đã đưa ra nhiều câu hỏi liên quan đến ý nghĩa của quy y và vì lý do đó, thầy đã thiết kế thẻ quy y mới này.
(Xem: 3602)
Nếu thời gian của con trong khóa nhập thất được sử dụng tốt, con sẽ làm hài lòng chư Phật cùng những vị trưởng tử, giúp hoàn thành...
(Xem: 2172)
Điều này được gửi đến những vị đang trong khóa nhập thất ba năm tại Pháp.
(Xem: 3282)
Sau khi phát khởi Bồ đề tâm trong Mật thừa và thọ nhận một quán đỉnh, người ta bước qua cánh cửa dẫn vào thực hành Mật thừa.
(Xem: 2923)
Một số đạo hữu đã yêu cầu thầy giải thích ý nghĩa của đai thiền định. Nói chung, đai thiền định được sử dụng bởi Tổ Milarepa khi thực hành Sáu Du Già Của Naropa.
(Xem: 5200)
Phật Thế Tôn đã giảng dạy bản văn sau đây, điều đem đến lợi lạc trong thời kỳ đen tối.
(Xem: 2576)
Om Ah Hung. Hôm nay, thầy có được cơ hội tuyệt vời để chia sẻ đôi lời về giới quy y.
(Xem: 3859)
Terton Lerab Lingpa Trinle Thaye Tsal vĩ đại, tức Terton Sogyal, là hóa hiện về thân của Tổ Nanam Dorje Dudjom[1], hóa hiện về khẩu của Kim Cương Hợi Mẫuhóa hiện về ý của Đại Sư Liên Hoa Sinh.
(Xem: 5264)
Hôm nay, chúng ta đều đã đến Vườn Cấp Cô Độc ở thành Xá Vệ, Ấn Độ, vùng đất của chư Thánh giả, nơi đã được cúng dường lên Đức Phật.
(Xem: 3812)
Điều đầu tiên mà bạn cần hiểu là mọi hữu tình chúng sinh đang sống trên thế giới này – ‘hữu tình chúng sinh của tam giới của sự tồn tại’ – là một sản phẩm của tâm.
(Xem: 2720)
Khi chúng ta nhìn vào hiện tượng vật chất trong thế giới này, chúng ta thấy rằng tất cả mọi sự vật hiện tượng xảy ra đều có nguyên nhân của nó.
(Xem: 2460)
Guru Rinpoche chào đời tám năm sau khi Đức Phật nhập diệt. Khi Đức Phật nhập diệt, Ngài sách tấn các đệ tử hãy hoan hỷ bởi Ngài sẽ trở lại là Guru Rinpoche.
(Xem: 2669)
Gần đây, nhiều người hỏi về Khandro Rinpoche tôn quý và những hoạt động tâm linh của Bà.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant