Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tiểu Sử Ngắn Gọn Của Bopa Tulku Dongak Tenpe Nyima

13 Tháng Ba 202119:44(Xem: 1857)
Tiểu Sử Ngắn Gọn Của Bopa Tulku Dongak Tenpe Nyima
Tiểu Sử Ngắn Gọn Của Bopa Tulku Dongak Tenpe Nyima

Khenpo Petse Rinpoche[1]
Pema Jyana

Hoa Vô Ưu

 

Bopa Tulku Dongak Tenpe Nyima là một đệ tử của Kunpal Rinpoche[2], vị giữ gìn truyền thống thanh tịnh của Jamgon Mipham Rinpoche[3]. Ngài sinh trong chu kỳ lịch thứ mười lăm ở phần phía Đông của miền Trung Tây Tạng, trong vùng Dakpo. Từ thuở nhỏ, tiềm năng giác ngộ của Ngài được đánh thức và Ngài bước vào con đường Giáo Pháp. Cuối cùng, Ngài gia nhập một đoàn thương nhân và người hành hương đang quay về miền Đông Tây Tạng và đi cùng với họ đến Kham để cầu học giáo lý.

Bởi còn trẻ và đường sá xa xôi, Ngài đã phải đối diện với vô vàn khó khăn, giống như những gì Jetsun Milarepa đã gặp phải, bởi Ngài thiếu các nhu yếu phẩm cần thiết để thực hành, chỉ có ít quần áo tồi tàn để mặc và v.v. Cuối cùng, Ngài đến được Tu viện Dzogchen[4] ở Dokham và tại đó, thọ nhận giáo lý từ chư Lama, Tulku, Khenpo và Acharya thường trú về các môn học khác nhau từ Kinh điểnMật điển, nhưng chủ yếu về mười ba bản văn kinh điển vĩ đại. Nhờ sự rèn luyện này, Ngài gia nhập hàng ngũ của những vị uyên bác.

Ngài cũng thọ nhận nhiều quán đỉnhkhẩu truyền từ vị tái sinh Dzogchen [thứ năm] Thubten Chokyi Dorje. Dzogchen Rinpoche đối xử với Ngài bằng tình thương lớn và ban cho Ngài danh hiệu Tulku, trao cho Ngài ngai tòa và bổ nhiệm hai thị giả tu sĩ đi cùng bất cứ nơi nào Ngài đi. Như thế, mọi người tôn vinh Ngài bằng danh hiệuBopa Tulku,’ tức vị Tulku từ miền Trung Tây Tạng.

Chính vào khoảng thời gian này, Ngài phát triển một sự xác quyết phi phàm với truyền thống độc đáo của Jamgon Mipham Rinpoche và cảm thấy rằng Ngài đơn giản phải gặp gỡ một vị đạotâm linh giữ gìn truyền thừa đó. Khi tìm hiểu, Ngài biết được rằng Kunpal Rinpoche từ Tu viện Gegong là một đệ tử trực tiếp của cả Patrul Rinpoche[5] và Mipham Rinpoche. Vì thế, Ngài đến đó để gặp vị này và sống trong khoảng thời gian dài ở Dzagyu, trở nên cực kỳ uyên bác về Kinh và Mật cùng mọi nhánh khoa học. Ngài cũng đến ẩn thất Changma, nơi Ngài diện kiến Bathur Khenpo Thubga[6].

Rất nhiều học trò từ khắp mọi nơi đã vân tập lại cùng nhau để truyền thống của Jamgon Mipham Rinpoche được giữ gìnduy trì, bởi nó được truyền lại cho nhiều đệ tử khác nhau, chẳng hạn Khenpo Chokhyab, Pema Tsewang Lhundrup, Mewa Khenpo Thubten, Rahor Khenpo Thubten và Khenpo Dazer.

Bopa Tulku đã biên soạn nhiều bộ luận chính và phụ, bao gồm Phân Biệt Tri KiếnGiáo Lý và tổng quan cùng với luận giải từng từ về Bát Nhã Ba La Mật. Ngài có một linh kiến về nhiếp chính Di Lặc trong một giấc mơ. Trong giấc mơ ấy, Ngài cầm một chiếc gương trong mỗi tay, trong đó, Ngài thấy rõ ràng bản văn gốc và luận giải cho Abhisamayālakāra [Hiện Quán Trang Nghiêm]. Sau đấy, một sự chắc chắn khởi lên trong tâm Ngài và Ngài soạn hai luận giải về Abhisamayālakāra với tựa đề Khẩu Truyền Của Đấng Vô Năng Thắng Di LặcTrang Nghiêm Linh Kiến Vô Năng Thắng Di Lặc.

Ngài cũng đã đến [Tu viện] Shechen Tennyi Dargye Ling[7], nơi Ngài sống tại Phật học việnchuyển Pháp luân. Sau khi Lama Kunpal viên tịch, Ngài tiếp tục các hoạt động giác ngộ mở rộng ở khắp vùng Dzagyu.

Khi Ngài du hành để gặp Đức Yukhok Chatral Choying Rangdrol (1872-1952), vị đạo sư này tuyên bố rằng một Bồ Tát vĩ đại sẽ đến vào hôm đó và ra ngoài để cung nghênh. Giữa một buổi lễ lớn, Ngài cung nghênh Bopa Tulku bằng sự kính trọng vô biên, công nhận Ngài là một hóa hiện của Pháp chủ Patrul Rinpoche và nói về cách mà bản thân Ngài nhớ về việc đã từng là Dola Jigme Kalzang[8]. Tâm trí tuệ của hai vị đạo sư vĩ đại này hòa làm một. Khi ấy trong đời, Botrul Rinpoche chỉ nói về các tác phẩm của Jamgon Mipham Rinpoche và Chatral Rinpoche nhiều lần tán thán sự hiểu phi phàm của Ngài.

Về sau, Ngài đã du hành đến Phật học viện Drikung Nyima Changra ở phần phía Bắc của miền Trung Tây Tạng và ban giáo lý về việc thành tựu các Tịnh độ cũng như giáo lý Kinh và Mật nói chung cho nhiều đệ tử may mắn một cách không mệt mỏi.

Tiểu sử ngắn gọn này được bổ sung bởi đệ tử trực tiếp của Ngài, Khenchen Pema Tsewang Lhundrup trong lúc du hành ở nước ngoài, tại Anh quốc để thúc đẩy truyền thống Giáo Pháp của Trường Phái Cổ Xưa.

 

Nguồn Anh ngữ: https://www.lotsawahouse.org/tibetan-masters/khenpo-petse/bopa-tulku-biography.

Adam Pearcey chuyển dịch Tạng-Anh năm 2005.

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.



[1] Về Khenpo Petse Rinpoche, tham khảo https://thuvienhoasen.org/p38a35606/mot-phac-thao-tu-truyen-ngan-gon.

[2] Theo Rigpawiki, Khenpo Kunzang Palden (khoảng 1862-1943) hay Kunpal (viết tắt, vị cũng được biết đến là Gegong Khenchen Kunzang Palden hoặc Thubten Kunzang Chokyi Drakpa) là một học giả vĩ đại của truyền thống Nyingma và là đệ tử thân cận và vị viết tiểu sử của Patrul Rinpoche. Ngài đã chào đời trong thung lũng Dzachukha ở Kham và xuất gia theo Khenpo Yonten Gyatso từ Tu viện Dzogchen. Sau khi thọ nhận trao truyền từ Đức Jamyang Khyentse Wangpo và Dzogchen Rinpoche thứ năm, Ngài trở thành một trong những vị trì giữ vĩ đại của truyền thừa Longchen Nyingtik. Ngài cũng là một học trò và vị viết tiểu sử của Mipham Rinpoche. Ngài đã giảng dạy tại Tu viện Gegong ở Dzachukha và là vị thầy đầu tiên tại Phật học viện của Tu viện Kathok, nơi Ngài được hỗ trợ bởi Khenpo Ngawang Palzang. Ngài đã để lại nhiều trước tác như Những Câu Chuyện Luật Tạng và một luận giải về Ngọn Đuốc Xác Quyết của Mipham Rinpoche. Ngài nổi tiếng nhất với luận giải về Nhập Bồ Tát Hạnh, thứ được giảng dạy cho đến ngày nay ở hầu hết các Phật học viện. Ngài là đạo sư chính yếu của Bopa Tulku và cũng đã dạy Khunu Lama Tenzin Gyaltsen.

[3] Về Jamgon Mipham Rinpoche, tham khảo https://thuvienhoasen.org/p38a32261/3/tieu-su-duc-mipham-jamyang-namgyal-gyatso-1846-1912-.

[4] Theo RigpawikiTu viện Dzogchen – Rudam Orgyen Samten Choling, một trong sáu Tổ đình Nyingma của Tây Tạng, được thành lập bởi Tổ Dzogchen Pema Rigdzin (1625-1697) vào năm 1675 (theo Đại Từ Điển Tây Tạng) hoặc 1684 (theo Tổ Jamyang Khyentse Wangpo). Nó trở nên đặc biệt nổi tiếng bởi [Phật học viện] Shri Singha Shedra do Gyalse Shenphen Thaye thành lập dưới thời Dzogchen Rinpoche thứ tư – Mingyur Namkhe Dorje, không lâu sau khi Tu viện gần như bị phá hủy trong một trận động đất vào năm 1842. Trong những đạo sư vĩ đại đã từng sống và giảng dạy tại Dzogchen có Khenpo Pema Vajra, Patrul Rinpoche, Mipham Rinpoche và Khenpo Shenga.

Dưới thời của Dzogchen Rinpoche thứ năm (1872-1935), Tu viện Dzogchen ở thời kỳ đỉnh cao của các hoạt động, với năm trăm tu sĩ cư ngụ, mười ba trung tâm nhập thất và ước tính hai trăm tám mươi [Tu viện] nhánh – một tập hội gồm hàng vạn Lama, Tulku, Khenpo, Tăng và Ni. Quanh năm, một chuỗi những nghi lễ phức tạp mở rộng được cử hành.

Dzogchen cũng là một trong những trung tâm nổi tiếng nhất về vũ điệu nghi lễ linh thiêng, ngày nay thường được biết đến là vũ điệu Lama.

Ngôi chùa chính đã bị phá hủy bởi hỏa hoạn vào tháng Hai năm Hỏa Tý (1936). Nó được xây dựng lại và sau đó, toàn bộ Tu viện bị phá hủy bởi người Trung Quốc vào cuối thập niên 1950.

[5] Về Patrul Rinpoche, tham khảo https://thuvienhoasen.org/p38a26125/4/tieu-su-van-tat-dai-su-dza-patrul-rinpoche-1808-1887-.

[6] Theo Rigpawiki, Changma Khenchen Thubten Chophel, tức Bathur Khenpo Thubga hay Thubga Yishin Norbu (1886-1956) – một đệ tử quan trọng của Khenpo Yonga và Orgyen Tenzin Norbu, vị đã theo chân Patrul Rinpoche. Ngài nổi tiếng về sự uyên bác lớn lao, đặc biệt về Mật điển Guhyagarbha, đóng góp của Ngài trong sự phát triển của truyền thống tu sĩ và sự chứng ngộ của Ngài về giáo lý Dzogchen. Một vài trong số những đệ tử quan trọng nhất của Ngài là Dilgo Khyentse Rinpoche, Khenpo Jigme Phuntsok, Gonpo Tseten Rinpoche, Chagdud Tulku Rinpoche và Dzogchen Rinpoche thứ sáu – Jigdral Changchub Dorje.

[7] Theo RigpawikiTu viện Shechen – một trong sáu Tổ đình Nyingma của Tây Tạng, được thành lập năm 1695 bởi Ngài Shechen Rabjam Tenpe Gyaltsen, vị được Đức Dalai Lama thứ năm cử đến Kham với mục đích này.

[8] Theo Rigpawiki, Dola Jigme Kalzang tức Chokyi Lodro hay Shonnu Yeshe Dorje (sinh 1789) – một đệ tử của Đức Dodrupchen thứ nhất – Jigme Trinle Ozer. Ngài đã công nhận Patrul Rinpoche là vị tái sinh của Palge Lama. Ngài đã ban nhiều trao truyền Nyingma, bao gồm cả Longchen Nyingtik, thay mặt cho Đức Dodrupchen. Tulku Thondup đã kể về cách mà Ngài hy sinh mạng sống vì lòng bi dành cho một tên trộm sắp bị xử tử ở Trung Quốc. Trong các hóa hiện của Ngài có Yukhok Chatralwa Choying Rangdrol.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 182)
Ta sinh ra tại thung lũng thượng Dra ở Yoru, là con trai của Lobpon Tenpa Sung và Droza Sonam Gyen. Từ thuở nhỏ,
(Xem: 184)
Kính lễ đạo sư vinh quang, vị Thánh Tôn, Đấng viên thành mong ước thù thắng –
(Xem: 309)
Trong chuyến viếng thăm ngắn đến Hà Lan, Rinpoche được mời đến giảng dạy một tối về truyền thống Kim Cương thừa
(Xem: 651)
(1) Kính lễ bậc Chúa Tể (dòng họ) Thích Ca. Thân Ngài đản sanh từ vô lượng công đức, tướng hảo thù thắng. Lời Ngài làm thỏa mãn hy vọng của vô lượng chúng sanh.
(Xem: 660)
Trước khi chuyển di thần thức của người đã khuất, hãy bắt đầu bằng cách gọi tên họ số lần thích hợp.
(Xem: 775)
Nhìn chung, điều được gọi là Tâm Yếu Bốn Phần chủ yếu bao gồm những giáo lý của Tôn giả Vimalamitra [Vô Cấu Hữu],
(Xem: 751)
Khai thị của Kyabje Lama Zopa Rinpoche về tánh Không (shunyata) trong lễ quy y tại Trung Tâm Phật Giáo A Di Đà
(Xem: 1054)
Hãy đảm bảo rằng, trước khi tôi bắt đầu, các bạn phát khởi động cơ Bồ đề tâm thù thắng, tâm giác ngộ quý báu.
(Xem: 1276)
Tobgyal Rinpoche[1] được thỉnh cầu nói về các Bardo (những trạng thái chuyển tiếp), một nét đặc trưng độc đáo của giáo lý Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 1090)
Hãy phát khởi động lựchành vi đúng đắn, nghĩ rằng tôi phải tạo lợi lạc cho tất cả chúng sanh bao la như không gian,
(Xem: 2373)
Tôn giả Longchen Rabjam (1308-1363) sinh ra ở Yoru thuộc phần phía Đông của miền Trung Tây Tạng, gần Tu viện Samye vĩ đại mà Đạo Sư Liên Hoa Sinh xây dựng vào thế kỷ tám.
(Xem: 1765)
Có nhiều vị Tôn trên thế gian này và Phổ Ba Kim Cương là một trong số đó. Thực hành về Ngài được biết đến là “thực hành Phổ Ba Kim Cương để ...
(Xem: 3469)
Từ năm lên ba, Lama Drimed Rinpoche đã bày tỏ niềm tin và sự yêu thích đáng kinh ngạc với Phật Pháp.
(Xem: 1585)
Đức Shechen Rabjam thứ nhất – Tenpe Gyaltsen sinh năm 1650, năm Kim Dần của chu kỳ sáu mươi năm thứ mười một.
(Xem: 2530)
Geshe Ngawang Dhargyey (1921-1995) sinh ra ở vùng Trehor thuộc Kham, phía đông của Tây Tạng và học ở Tu viện Dhargyey địa phương cho đến khi 18 tuổi.
(Xem: 2309)
Này Tashi Lhamo[2] thành kính, nếu con muốn đạt giác ngộ, Hãy suy nghĩ xem thật khó khăn làm sao mới có được thân người tự dothuận duyên này.
(Xem: 1951)
Nhìn chung, chúng ta có thể nói rằng có hai phần trong truyền thừa Barom Kagyu: truyền thừa truyền miệng dài và truyền thừa ngắn của linh kiến sâu xa.
(Xem: 2911)
Khi cặp vợ chồng từ tộc Drenka ở Penyul trở thành cha mẹ tự hào của một người contrai vào năm 1127, họ đặt tên cậu bé theo một Kinh điển:
(Xem: 1978)
Ngài Drapa Ngonshe sinh vào năm Thủy Tý đực (tức năm 1012 Dương lịch) với cha là ông Zhangtag Karwa, người đã đặt tên Ngài là Taktsab.
(Xem: 2343)
Ngài Phakmodrupa Dorje Gyalpo sinh năm 1110 và được nuôi dưỡng bởi cha mẹ nghèo khó ở phía Nam của Kham.
(Xem: 1764)
Từ quan điểm chiêm tinh, tháng Thân linh thiêng tương ứng với tháng 5 Âm lịch Tây Tạng. Ngài Terdak Lingpa[3], em trai[4] và Đức Dalai Lama thứ Năm ...
(Xem: 1655)
Theo các tiểu sử, Bà Mandarava là một công chúa thông tuệ, thiện lành và xinh đẹp, sinh ra trong một gia đình hoàng gia ở Zahor,
(Xem: 2388)
Khandro Tare Lhamo sinh năm Thổ Dần 1938 trong thung lũng Bokyi Yumolung của vùng du mục Golok.
(Xem: 1467)
Sera Khandro Kunzang Dekyong Wangmo sinh ra trong một gia đình giàu có, quyền lực về chính trị ở Lhasa.
(Xem: 2780)
Bà Jetsun Jampa Chokyi sinh vào ngày 30 tháng 12 năm Thủy Tuất (1922). Cha Bà, Sonam Tobgyal, xuất thân từ gia đình...
(Xem: 1823)
Dưới chân đạo sư, con đỉnh lễ. Nhớ về vô thường và cái chết, Đẩy lui bám chấp với đời này và trưởng dưỡng xả ly –
(Xem: 3739)
Đức Riwoche Jedrung thứ bảy – Jampa Jungne sinh năm 1856 trong gia đình Shol Danak của Tu viện Riwoche ở Kham,
(Xem: 2072)
Sau đây là ảnh hưởng từ hành vi của bạn tốt: Đồng hành cùng vị uyên bác giúp tăng trưởng sự thông tuệ. Đồng hành cùng vị bi mẫn giúp đánh thức Bồ đề tâm.
(Xem: 1927)
Thân người tự dothuận duyên này mà con đã có được. Cung cấp nền tảng để đạt được hỷ lạc vĩnh cửu.
(Xem: 2462)
Từng có một học trò, người đến gặp đạo sư để thỉnh cầu chỉ dẫn. Vị đạo sư sắp rời đi và đang vội nhưng Ngài vẫn chấp nhận lời thỉnh cầu.
(Xem: 4419)
Bản văn này được Orgyen Tobgyal Rinpoche mạnh mẽ khuyến khích với những vị mong muốn làm sâu sắc sự hiểu của họ về thực hành Sur[1].
(Xem: 1870)
Đầu tiên trong sáu ba la mật, bố thí ba la mật, không phải chỉ là về trao cho người nghèo.
(Xem: 2780)
Nhìn chung, những điểm then chốt để thấu triệt giáo lý của Phật là: Được thúc đẩy bởi sự xả ly và Bồ đề tâm, Tránh ác hạnhnỗ lực làm các thiện hạnh,
(Xem: 1604)
Đầu tiên, bởi thân người này – sự hỗ trợ cho các phẩm tính của giải thoát – khó được, chúng ta phải hướng các ý nghĩ rời khỏi những vấn đề của đời này.
(Xem: 2499)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 2595)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 1998)
Liều thuốc giải cho ảo tưởng, bản ngã và từng vấn đề khác mà chúng ta đối mặt là trí huệ của Pháp;
(Xem: 3573)
Khi bắt đầu thiền định, một trong những cách thức để tăng trưởng Bồ đề tâmlòng bi mẫnthực hành cho và nhận
(Xem: 3021)
Thực hành chính yếu mà thầy tiến hành trong tù ngục là Tong-len (cho và nhận). Khenpo Munsel[1] đã trao cho thầy nhiều chỉ dẫn khẩu truyền đặc biệt về Tong-len, điều không có trong bản văn.
(Xem: 1957)
Bardor Tulku Rinpoche sinh năm 1949 ở Kham, miền Đông Tây Tạng. Từ rất nhỏ, Ngài đã được Đức Gyalwang Karmapa thứ 16 công nhậnhóa hiện thứ ba của Terchen Barway Dorje[1].
(Xem: 1985)
Môn đồ Nyingma của Chân ngôn Bí mật nhấn mạnh vào Mật điển thực sự[2]. Họ theo đuổi tri kiến cao nhất và ham thích hành vi ổn định.
(Xem: 2314)
Con đỉnh lễ đạo sư và đấng bảo hộ Văn Thù Sư Lợi! Trước tiên, hãy quy y Tam Bảo,
(Xem: 2020)
Một vị khác đã nghe những chỉ dẫn về cách tiếp cận Dzogchen Đại Viên Mãn từ Adzom Drukpa Rinpoche Drodul Pawo Dorje
(Xem: 2421)
Tôi, Pema Tsewang Lhundrup, đã chào đời trong năm Kim Mùi của chu kỳ lịch thứ mười sáu (tức năm 1931).
(Xem: 2079)
Khunkhen Pema Karpo là một trong những vị tổ dòng Phật giáo Drukpa Kayu ở miền xứ Tuyết.
(Xem: 2124)
Đạo sư vô song, Phật Thế Tôn; Giáo Pháp linh thiêng, thù thắng và chẳng dối lừa;
(Xem: 2530)
Mọi người đã đưa ra nhiều câu hỏi liên quan đến ý nghĩa của quy y và vì lý do đó, thầy đã thiết kế thẻ quy y mới này.
(Xem: 3601)
Nếu thời gian của con trong khóa nhập thất được sử dụng tốt, con sẽ làm hài lòng chư Phật cùng những vị trưởng tử, giúp hoàn thành...
(Xem: 2171)
Điều này được gửi đến những vị đang trong khóa nhập thất ba năm tại Pháp.
(Xem: 3282)
Sau khi phát khởi Bồ đề tâm trong Mật thừa và thọ nhận một quán đỉnh, người ta bước qua cánh cửa dẫn vào thực hành Mật thừa.
(Xem: 2923)
Một số đạo hữu đã yêu cầu thầy giải thích ý nghĩa của đai thiền định. Nói chung, đai thiền định được sử dụng bởi Tổ Milarepa khi thực hành Sáu Du Già Của Naropa.
(Xem: 5200)
Phật Thế Tôn đã giảng dạy bản văn sau đây, điều đem đến lợi lạc trong thời kỳ đen tối.
(Xem: 2576)
Om Ah Hung. Hôm nay, thầy có được cơ hội tuyệt vời để chia sẻ đôi lời về giới quy y.
(Xem: 3859)
Terton Lerab Lingpa Trinle Thaye Tsal vĩ đại, tức Terton Sogyal, là hóa hiện về thân của Tổ Nanam Dorje Dudjom[1], hóa hiện về khẩu của Kim Cương Hợi Mẫuhóa hiện về ý của Đại Sư Liên Hoa Sinh.
(Xem: 5263)
Hôm nay, chúng ta đều đã đến Vườn Cấp Cô Độc ở thành Xá Vệ, Ấn Độ, vùng đất của chư Thánh giả, nơi đã được cúng dường lên Đức Phật.
(Xem: 3812)
Điều đầu tiên mà bạn cần hiểu là mọi hữu tình chúng sinh đang sống trên thế giới này – ‘hữu tình chúng sinh của tam giới của sự tồn tại’ – là một sản phẩm của tâm.
(Xem: 2719)
Khi chúng ta nhìn vào hiện tượng vật chất trong thế giới này, chúng ta thấy rằng tất cả mọi sự vật hiện tượng xảy ra đều có nguyên nhân của nó.
(Xem: 2460)
Guru Rinpoche chào đời tám năm sau khi Đức Phật nhập diệt. Khi Đức Phật nhập diệt, Ngài sách tấn các đệ tử hãy hoan hỷ bởi Ngài sẽ trở lại là Guru Rinpoche.
(Xem: 2669)
Gần đây, nhiều người hỏi về Khandro Rinpoche tôn quý và những hoạt động tâm linh của Bà.
(Xem: 3658)
Với những vị nhấn mạnh duy nhất vào việc trưởng dưỡng Bồ đề tâm trong cuộc đời, lời khuyên thích hợp cho họ khi tiến gần đến cái chết là nương tựa năm sức mạnh để định hướng lối đi của họ đến đời sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant