Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Nhất: Cái Trống Không Của Đạt Ma

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15792)
Tắc thứ Nhất: Cái Trống Không Của Đạt Ma

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 1

TẮC THỨ NHẤT

CÁI TRỐNG KHÔNG CỦA ĐẠT MA

 

blankTHÙY: Thấy khói bên kia núi biết là có lửa, thấy sừng bên kia tường biết là có trâu. Chỉ một hiểu ba, thoáng nhìn đã rõ, đó cũng như chuyện cơm nước thường ngày của tăng sĩ. Còn như cắt đứt các dòng nhánh, hiện lên ở phương đông, chìm đi ở phương tây, tung hoàng nghịch thuận, tự tại cho hay lấy, vào giây phút đó, thử nói xem là hành tung của kẻ nào? Thử nhìn vào những lời dây dưa của Tuyết Đậu.

CỬ: Lương Vũ Đế hỏi Đạt Ma Đại Sư, “Thế nào là sự thật cứu cánh siêu phàm?” Đạt Ma nói, “Trống không chẳng có gì là siêu phàm”. Vũ Đế hỏi, “Thế đối diện Trẫm là ai vậy?” Đạt Ma nói “Không biết”. Vũ Đế không hiểu, Đạt Ma bèn sang sông qua nước Ngụy. Sau đó Vũ Đế thuật lại câu chuyện trên cho Chí Công. Chí Công hỏi, “Thế bệ hạ đã biết người ấy là ai chưa?” Vũ Đế nói “Không biết”. Chí Công nói, “Đó chính là Bồ Tát Quan Âm đến để truyền tâm ấn của Phật.” Vũ Đế lấy làm ân hận, bèn sai sứ đuổi theo để mời Đạt Ma trở lại. Chí Công nói, “Đừng có nói là bệ hạ sai sứ đuổi theo, dù cho là cả nước có đuổi theo đi nữa người ấy cũng không trở lại đâu.”

BÌNH: Đạt Ma từ xa nhìn thấy đất này (Trung Hoa) có căn khí Đại Thừa, cho nên mới lênh đênh vượt biển mà tới, quyết ý trao truyền tâm ấn, khai ngộ nẻo mê, không lập văn tự, chỉ thẳng vào tâm, để người ta thấy tự tính của mình mà chứng thành Phật đạo[1].Nếu ai có thể thấy được như thế đương nhiên cũng được giải thoát, không còn bị tất cả các hệ lụy của ngôn ngữ ràng buộc, lập tức siêu việt lên tất cả chứng thành ngay Phật tính [2].Sau đó mới có thể nói chuyện với Vũ Đế cũng như thấy rõ cái chỗ an tâm của Nhị Tổ[3].Không còn những so đo phân biệt của cảm quan, cắt đứt tất cả những thứ này, bình thản tự tại, cần gì còn phải phân biệt thị phi, tính toán được mất? Tuy là như vậy, song mấy ai có thể như thế?

Vũ Đế thường mặc áo cà sa, đích thân giảng Kinh Phóng Quang Bát Nhã[4], giảng sống động đến mức khiến hoa trời rơi tơi tả xuống đất biến thành ngọc lưu ly. Vũ Đế còn học Đạo thờ Phật, ra lệnh cho thiên hạ xây chùa độ tăng, tu hành theo giáo lý. Thiên hạ gọi ông là Phật Tâm Thiên Tử.

Lúc Đạt Ma mới đến gặp Vũ Đế, Vũ Đế bèn hỏi , “Trẫm xây chùa độ tăng, như thế có công đức chăng?” Đạt Ma nói “ Chẳng có công đức gì cả”. Như thế chẳng khác gì xối nước bẩn lên đầu người ta. Nếu như ai hiểu được câu nói “ chẳng có công đức gì cả” này, kể như người ấy đủ khả năng đối diện Đạt Ma. Thử nói xem xây chùa độ tăng mà lại chẳng có công đức gì cả? ý nghĩa lời này là ở đâu?

Vũ Đế thường cùng Lũ Ước Pháp sư, Phó Đại Sĩ, và Chiêu Minh Thái Tử bàn luận về hai sự thật cứu cánh và công ước. Cứ theo như trong giáo lý thì sự thật cứu cánh là để giải minh phi hữu, sự thật công ước là để giải minh phi-vô. Cứu cánh và công ước không phải là hai, đó chính là sự thật tuyệt đối siêu phàm. Đó là chỗ vi diệu huyền ảo nhất mà hỏi Đạt Ma, “Thế nào là sự thật cứu cánh siêu phàm?” Đạt Ma nói, “Trống không chẳng có gì là siêu phàm”. Tất cả các tăng sĩ trong thiên hạ không ai nhảy ra khỏi chỗ này nổi cả. Đạt Ma dùng một đao cắt đứt tất cả chấp trước cho Vũ Đế. Nay người ta mới hiểu lầm làm sao, lại dở trò tinh quái trợn mắt mà nói, “trống không chẳng có gì ăn nhằm đến lời dạy của Đạt Ma cả.

Ngũ Tổ thường nói, “Chỉ cần người ta có thể hiểu thấu cái nguyên lý trống không chẳng có gì là siêu phàm này là người ta có thể về nhà ngồi bình thản.” Một bên thì thiên hạ lo tạo ra những phức tạp, song cũng chẳng hại gì đến việc Đạt Ma đập vỡ cái thùng đen[5] cho họ. Đạt Ma chính là người kỳ đặc nhất trong vấn đề này. Cho nên mới có lời nói, “ Nếu như có thể tham hiểu một câu, thì có thể hàng vạn câu một lúc”. Lúc ấy đương nhiên người ta có thể thấu rõ, nắm vững. Cổ nhân nói, “Tan Xương nát thịt không đủ trả, hiểu được một câu vượt trăm ức.”

Đạt ma đối diện trực tiếp với Vũ Đế, lận đận biết bao. Vũ Đế không giác ngộ, lại còn dựa vào kiến chấp, nhân-ngã, hỏi thêm một câu, “Đối diện với Trẫm là ai?” Đạt Ma từ bi cùng tột, lạinói với Vũ Đế “Không biết”. Khiến cho Vũ Đế kinh hoàng đi, không hiểu Đạt Ma muốn nói gì . Đến mức này mà còn chấp có hay không thì đều chẳng nhằm.

Đoan hòa thượng có lời tụng rằng;

Một tên bình thường một ưng rơi

Lại thêm tên nữa mất công thôi

Trở về Thiếu Thất ngồi yên đó,

Vũ Đế đừng mong ngỏ lời mời.

Lại nói, “Ai muốn mời Đạt Ma trở lại cơ?”

Vũ Đế không hiểu, Đạt Ma bỏ nước Lương mà đi, lão hán này chỉ còn biết lúng túng. Đạt Ma bèn qua sông đến nước Ngụy. Sau này có truyền kỳ nói lại rằng Đạt Ma đạp trên một cọng lau mà qua sông. Điều này không được rõ lắm, có thể là những lời tán tụng mà thôi.[6]Lúc ấy Ngụy Minh Đế đang trị vì. Minh Đế vốn thuộc về một chủng tộc phương bắc, gọi là Thác Bạt (Toba) sau này mới tự nhận là người Trung Quốc. Đạt Ma đến đó không đi gặp ai nữa mà lên thẳng núi Thiếu Lâm, ngồi thiền quay mặt vào tường suốt chín năm. Sau đó mới gặp Nhị Tổ. Người ở vùng đó gọi Đạt Ma là “ Bích Quán Bà La Môn”.

Vũ Đế sau đó hỏi Chí Công, Chí Công nói, “Thế bệ hạ đã biết người ấy là ai chưa?” Vũ Đế nói, “Không biết”. Thử nói xem cái “không biết” này là một hay khác với cái “không biết” của Đạt Ma. Giống thì có giống, nhưng mà không phải là một. Thiên hạ hay hiểu lầm mà bảo rằng, “Trước đó, lúc Đạt Ma nói “ không biết” là đang trả lời về Thiền, sau đó lúc Vũ Đế trả lời Chí Công, câu trả lời ấy chỉ nằm ở bình diện tri thức công ước.” May thay điều này chẳng có gì nhằm nhò với ý chỉ của Đạt Ma. Lúc ấy Chí Công hỏi như thế, thử hỏi xem, Vũ Đế phải trả lời như thế nào? Tại sao không một gậy đập chết Chí Công đi cho rồi để khỏi phải lộ vẻ hồ đồ? Vũ Đế lại thành thực mà khẩn khoản đáp là “ không biết”. Chí Công thấy cơ hội, bèn chụp lấy mà nói, “Đó chính là Bồ Tát Quan Âm đến để truyền tâm ấn của Phật.” Vũ Đế bèn ân hận mà sai sứ đuổi theo để mời Đạt Ma trở lại. Ngây ngô thật! Phải chi lúc Chí Công nói, “Đó chính là Bồ Tát Quán âm đến để truyền tâm ấn của Phật,” mà Vũ Đế tống cổ ông ta ra khỏi nước thì hẳn đã còn có gì hay ho hơn.

Theo truyền thuyết thì Chí Công mất vào năm Thiên Giám thừ mười ba (514 A.D), Đạt Ma thì mãi năm Đại Thông nguyên niên (520 A.D.) mới tới Lương. Như thế là cách nhau có đến bảy năm, làm thế nào có thể bảo là hai người có gặp nhau được? Đây hẳn phải là một truyền thuyết sai lầm. Song những gì đã ghi lại trong truyền thống, ở đây không bàn cãi làm gì. Điều quan trọng là phải hiểu cái ý chính của vấn đề mà thôi. Thử nói xem, Đạt MaQuan Âm, Chí Công cũng là Quan Âm, vậy thì ai thật sự là Quan Âm đây? Đã là Quan Âm thì tại làm sao lại còn có hai? Tại sao lại chỉ có hai, mà không hàng đoàn hàng lũ?

Sau đó ở Ngụy Đạt Ma có nghị luận với Quang Thống luật sưtam tạng sư Bồ Đề Lưu Chi. Đạt Ma gạt bỏ hình tướng chỉ thẳng vào tâm, song hai vị kia thì chấp trước thành kiến cho nên không chấp nhận nổi lập luận của Đạt Ma. Rốt cuộc còn sinh khởi lòng ganh ghét và mấy bận toan đầu độc Đạt Ma. Đến lần thứ sáu, vì hóa duyên đã trọn vẹn, và cũng đã tìm được người để truyền Pháp, bèn thản nhiên chấp nhận[7], rồi ngồi thẳng thắn mà mất. Đạt Ma được mai tang ở chùa Định Lâm trên núi Hùng Nhĩ. Sau này người nước Ngụy là Tống Vân trên đường đi sứ có gặp Đạt Ma trên ngọn Thông Lĩnh tay cầm một chiếc dép trở về Ấn Độ.

Vũ Đế thương tiếc, tự soạn văn bia rằng, “Ôi, thấy mà chẳng thấy, gặp mà chẳng gặp, ngàn xưa ngàn sau, oán thay hận thay.” Rồi lại tán thán rằng,” Tâm mà không thì trong sát na chứng được diệu giác, tâm mà có thì ngàn muôn kiếp vẫn đọa luân hồi.”

Thử nói xem hiện giờ Đạt Ma ở đâu? Đi qua rồi mà cũng chẳng biết.

TỤNG:

Sự thật trống không

Làm sao phân biện

Trước trẫm là ai?

Còn nói không biết

Do đó lén qua sông

không sinh gai góc

Cả nước đuổi theo cũng chẳng về,

Ngàn sau ngàn xưa nhớ mong suông

Đừng nhớ mong

Gió thổi mặt đất bao giờ ngưng

Sư nhìn hai bên nói:

Nơi này còn có Tổ Sư chăng/

Tự đáp, “Có”.

Đến đây rửa chân cho lão tăng

BÌNH: Tuyết Đậu tụng công án này, giống như y thể khéo múa Thái A Kiếm, uyển chuyển trong không, đương nhiên không phạm phải mũi nhọn. Nếu như không có cái khả năng này, thì vừa nhặt kiếm lên tay hẳn đã bị mũi nhọn đả thương. Đối với những người đủ mắt để nhìn thấy thì một niệm, một xuyên, một khen, một chê, chỉ dùng tứ cú mà định đoán cả một tắc công án. Phàm việc tụng cổ, thường là giảng về Thiền một cách vòng vo, nêu lên ý chính của vấn đề xưa, rồi theo các dữ kiệnkết thúc công án, chỉ có thế thôi.

Tuyết Đậu giáp mặt trực tiếp với công án, lập tức tụng rằng, “Sự thật trống không, làm sao phân biện?” Dưới câu đầu, Tuyết Đậu thêm một câu này, quả là kỳ đặc hết sức. Thử nói xem, rốt cuộc phải phân biện như thế nào? Dù cho có mắt sắt người đồng đi nữa, cũng chẳng biết đường nào mà rờ rẫm. Đến chổ này rồi, há có thể lấy tỉnh thức ra mà đắn đo được sao? Do đó mà Vân Môn nói, “ Như đánh đá lửa, giống ánh điện chớp”. Vấn đề này không nằm trong sự suy nghĩ hay ý tưởng. Đến lúc mà ông há miệng, thì đâu còn có công dụng gì nữa. Ngay lúc tính toán so đo vừa khởi, thì con chim cắt đã bay qua Tân La ( Cao Ly ) rồi.

Tuyết Đậu nói, “Các ông tăng trong thiên hạ, các ông phân biện vấn đề này như thế nào? Đối diện với trẫm là ai?” Lại còn nói “không biết”. Đây chính là chỗ từ tâm của Tuyết Đậu, nổ lực không ngớt để giúp thiên hạ. Thử nói xem “trống không” và “ không biết” là một hay hai. Nếu như người đủ khả năng hiểu, thế nào cũng phân nó làm hai. Thiên hạmọi nơi thường nói, “Tuyết Đậu cùng lắm chỉ nêu lại vấn đề lên một lần nữa mà thôi.” Đâu có biết rằng, bốn câu tụng đã nói lên hết ý nghĩa của công án rồi.

Sau đó vì lòng từ bi, Tuyết Đậu mới tụng sự tích nhân duyên rằng, “ Do đó lén qua sông, há không sinh gai góc?” Đạt Ma đến xứ này vốn để giải thoát thiên hạ khỏi chỗ dính dấp ràng buộc, nhổ đinh bạt chốt, cắt dọn gai góc. Tại sao Tuyết Đậu lại đi nói rằng Đạt Ma làm gai góc sinh? Cũng không phải chỉ vào buổi ấy, mà ngày nay dưới chân mọi người gai góc cũng đã thâm đến mấy trượng. “Cả nước đuổi theo cũng chẳng về, ngàn xưa ngàn sau nhớ mông suông”, đúng là không phải trượng phu. Thử nói xem, Đạt Ma ở đâu? Nếu thấy được Dạt Ma thì sẽ thấy được chỗ vì người của Tuyết Đậu

Tuyết Đậu lại sợ thiên hạ mải đuổi theo kiến thức thường tình, cho nên mở tung khóa chốt, để lộ chỗ thấy của mình mà nói rằng, “Đừng nhớ mong! Gió thổi mặt đất bao giờ ngưng.” Nếu đã không nhớ mong, thì các chuyện dưới chân mình làm sao mà nảy sinh? Tuyết Đậu nói, hiện giờ ở đây, gió trong thổi mặt đất, trên trời dưới đất, có chỗ nào là cùng cực? Tuyết Đậu đem tất cả các việc từ thiên cổ vạn cổ ném ngay ra trước mặt. Không phải chỉ với một mình Tuyết Đậu, mà ngay hiện giờ có chỗ nào là cùng cực? Ngay cả nơi con người các ông, có chỗ nào là cùng cực?

Tuyết Đậu lại vẫn sợ thiên hạ sẽ chấp trước vào chỗ này, cho nên lại mượn vào phương tiện, lớn tiếng nói, “Nơi này còn có Tổ Sư chăng?” Rồi tự trả lời, “Có”. Ở đây Tuyết Đậu chẳng còn ngần ngại bộc lộ lòng dạ của mình cho thiên hạ. Lại tự nói, “Đến đây rửa chân cho lão tăng”.Quả tình là hạ thấp quang huy của người ta một cách quá đáng, song lúc ấy Tuyết Đậu cũng đã cung hiến cả tay chân mình. Thử nói xem, ý của Tuyết Đậu nằm ở chổ nào? Đến chổ này rồi thì có gọi là lừa cũng được, có gọi là ngựa cũng được, mà có gọi là Tổ Sư cũng được. Song làm sao có thể gọi tên hay mô tả được? Ý kiến thông thường rằng Tuyết Đậu chỉ lợi dụng Tổ Sư, may thay chẳng có gì nhằm nhò với việc này cả. Nhưng mà thử nói xem, rốt cuộc là chuyện gì đây? “Chỉ cho lão hồ biết, không cho lão hồ hiểu”.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14978)
Đại chánh tân tu số 0070, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13420)
Đại chánh tân tu số 0068, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15094)
Đại chánh tân tu số 0069, Hán dịch: Pháp Hiền, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16448)
Luận Du Già Sư Địa (Phạn: Yogacàrabhùmi – sàtra), tác giảBồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664)... Nguyên Hiền
(Xem: 13201)
Đại chánh tân tu số 0067, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12554)
Đại chánh tân tu số 0066, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13427)
Đại chánh tân tu số 0065, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13383)
Đại chánh tân tu số 0064, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12733)
Đại chánh tân tu số 0063, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 12049)
Đại chánh tân tu số 0063, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11938)
Đại chánh tân tu số 0062, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12614)
Đại chánh tân tu số 0061, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11444)
Đại chánh tân tu số 0060, Hán dịch: Huệ Giản; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11751)
Đại chánh tân tu số 0059, Hán dịch: Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11130)
Đại chánh tân tu số 0058, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13258)
Đại chánh tân tu số 0057, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13137)
Đại chánh tân tu số 0056, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11549)
Đại chánh tân tu số 0055, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12138)
Đại chánh tân tu số 0054, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12336)
Đại chánh tân tu số 0052, Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11911)
Đại chánh tân tu số 0051, Hán dịch: Khuyết Danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12711)
Đại chánh tân tu số 0050, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12333)
Đại chánh tân tu số 0048, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12162)
Đại chánh tân tu số 0047, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12220)
Đại chánh tân tu số 0046, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11973)
Đại chánh tân tu số 0045, Hán dịch: Pháp Hiền, Thí Quang Lộc Khanh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11932)
Đại chánh tân tu số 0044, Hán dịch: Khuyết Danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11196)
Đại chánh tân tu số 0043, Hán dịch: Huệ Giản; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11339)
Đại chánh tân tu số 0042, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12351)
Đại chánh tân tu số 0041, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12446)
Đại chánh tân tu số 0040, Hán dịch: Ðàm Vô Sấm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11977)
Đại chánh tân tu số 0039, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12932)
Đại chánh tân tu số 0038, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12008)
Đại chánh tân tu số 0037, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12586)
Đại chánh tân tu số 0036, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12975)
Đại chánh tân tu số 0035, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13913)
Đại chánh tân tu số 0034, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12712)
Đại chánh tân tu số 0033, Hán dịch: Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14842)
Đại chánh tân tu số 0032, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11897)
Đại chánh tân tu số 0031, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12159)
Đại chánh tân tu số 0030, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12864)
Đại chánh tân tu số 0029, Hán dịch khuyết danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12747)
Đại chánh tân tu số 0028, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14740)
Đại chánh tân tu số 0027, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12714)
Đại chánh tân tu số 0022, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15367)
Đại chánh tân tu số 0021, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12557)
Đại chánh tân tu số 0020, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13191)
Đại chánh tân tu số 0018, Hán dịch: Pháp Thiên; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14198)
Đại chánh tân tu số 0017, Hán dịch: Chi Pháp Ðộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15513)
Đại chánh tân tu số 0016, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13712)
Đại chánh tân tu số 0015, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13115)
Đại chánh tân tu số 0014, Hán dịch: Sa Môn An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc và Tâm Hạnh
(Xem: 13539)
Kinh Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0006) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12434)
Kinh Phật Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0005) - Bạch Pháp Tổ; Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12051)
Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự (Đại Chánh Tân Tu số 0004) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12865)
Kinh Phật Tỳ Bà Thi (Đại Chánh Tân Tu số 0003) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 12941)
Kinh Thất Phật (Đại Chánh Tân Tu số 0002) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13161)
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta, làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin; không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta... HT Thích Hành Trụ dịch
(Xem: 21298)
Thiện Ác Nghiệp Báo (Chư Kinh Yếu Tập) Đại Chánh Tân Tu số 2123 - Nguyên tác: Đạo Thế; Thích Nguyên Chơn dịch
(Xem: 143531)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant