Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Bảy Mươi Tám: Mười Sáu Bồ Tát Đi Tắm

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15276)
Tắc thứ Bảy Mươi Tám: Mười Sáu Bồ Tát Đi Tắm

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 8

TẮC THỨ BẢY MƯƠI TÁM

MƯỜI SÁU BỒ TÁT ĐI TẮM

 

CỬ: Xưa có mười sáu vị Bồ Tát. Lúc đến giờ chư tăng đi tắm, các vị Bồ Tát ấy xếp hàng vào tắm. Hốt nhiên ngộ được thể tính của nước. Các vị Thiền đức, các vị hiểu như thế nào khi họ nói, “Diệu xúc tuyên minh, thành Phật tử trụ”? Cần phải dùi mài lắm mới có thể hiểu được.

BÌNH: Trên Hội Lăng Nghiêm Bạt Đà Bà La Bồ Tát cùng với mười sáu Bồ Tát kia, mọi người đều tu Phạm hạnh, rồi mỗi người nói về chỗ chứng viên thông pháp môn của mình. Đây là một trong hai mươi lăm viên thông pháp môn. Mười sáu Bồ tát kia nhân vào giờ chư tăng tắm, xếp hàng vào tắm mà ngộ được thể tính của nước. Đã không rửa bụi mà cũng không rửa thân thể, thử nói xem họ rửa cái gì? Nếu như các ông hiểu được, thì các ông được an nhiên bên trong và đắc được vô sở hữu. Lúc ấy ngàn người vạn người cũng không thể đến gần các ông được. Có lời nói rằng, “Vô sở đắc mới là chân Bát Nhã; nếu như có sở đắc thì chỉ là tương tự Bát Nhã mà thôi.”

Há không nghe Đạt Ma nói với NHị Tổ, “Đem tâm đến rồi ta an cho ông.” Nhị Tổ nói, “Tìm tâm mãi mà không thấy.” Chỉ một chút này thôi lại chính là căn bổn tính mệnh của các nạp tăng. Chẳng có gì để mà dâydưa như thế, chỉ cần nói hốt nhiên ngộ được thể tính của nước, là tự nhiên các ông hiểu được. Đã không rửa bụi lại cũng chẳng rửa thân thể, thử nói xem họ ngộ được cái gì? Khi đã đạt đến mức độ này rôì, chẳng có gì để chấp trước cả, ngay cả việc nói lên một chữ “ Phật” cũng cần phải tránh. Họ nói, “Diệu xúc tuyên minh, thành Phật tử trụ.” “Tuyên” có nghĩa là “làm cho hiển hiện.” Diệu xúc có nghĩa là minh. Một khi ngộ được diệu xúc tức là đạt được điạ vị Phật tử. Cũng có nghĩa là đạt được Phật địa vậy.

Người bây giờ đi tắm, cũng rửa bằng nước, cũng có cái xúc như thế. Tại sao họ lại không ngộ? Bởi vì họ đều bị trần cảnh che mờ. Họ dính vào da bám vào xương. Cho nên họ không thể giác ngộ ngay. Nếu như ở đây không có rửa, không có xúc mà cũng chẳng có thể tính của nước, thử nói xem có phải là “diệu xúc tuyên minh” hay không? Nếu như các ông có thể trực tiếp trông thấy được thì đó đúng là “ diệu xúc tuyên minh, thành Phật tử trụ.” Người thời buổi này cũng “xúc”, song họ có thấy được chỗ vi diệu chăng? Diệu xúc không phải là cảm xúc thường tình hay người cảm xúc. Hợp thì là xúc li thì không phải.

Lúc Huyên Sa qua núi bị vấp ngón chân, lúc Đức Sơn đánh, há không phải là diệu xúc sao? Tuy là thế, muốn hiểu được các ông cần phải dùi mài rất nhiều. Nếu như các ông chỉ dựa nơi thân thểtìm kiếm, thì có gì la nhằm nhò? Nếu như các ông khéo dùi mài thì cần gì phải vào tắm nữa? Lúc ấy các ông có thể làm hiển hiện cõi Phật trên đầu một sợi lông, chuyển Pháp luân lớn trong một hạt bụi nhỏ. Nếu như các ông có thể thấu được ở một chỗ, thì ngàn chỗ vạn chỗ đồng thời thấu được ở một chỗ, thì ngàn chỗ vạn chỗ đồng thời thấu được ngay. Cho nên ôm giữa một hang một hố, chỗ nào cũng là cửa để cho Quan Âm nhập lý cả.

Cổ nhân cũng có nghe tiếng ngộ đạo, thấy sắc minh tâm. Nếu như một người ngộ thì cũng chẳng có gì là lạ, tại sao mười sáu vị Bồ tát lại cùng ngộ một lúc? Bởi vì cổ nhân cùng tu cùng chứng cùng ngộ một lúc? Bởi vì cổ nhân cùng tu cùng chúng cùng ngộ cùng hiểu. Tuyết Đậu nêu lời dạy của họ, ý muốn cho thiên hạ dưạ vào chỗ “diệu xúc” mà hiểu. Song Tuyết Đậu vượt qua con mắt của giáo để mà tụng ngõ hầu cho thiên hạ khỏi bị vướng kẹt trong giáo, nửa tỉnh nửa say. Tuyết Đậu muốn cho thiên hạ được siêu thoát tự tại. Tụng rằng:

TỤNG

Chỉ cần một tăng hiểu việc này,

Trên giường rộng cứ duỗi chân nằm.

Trong mộng từng nói ngộ viên thông,

Đã tắm nước thơm, nhổ vào mặt.

BÌNH: “Chỉ cần một tăng hiểu việc này.” Nhưng mà thử nói xem, hiểu việc gì cơ? Bậc thiền khách chuyên gia vừa nghe nêu lên là đã phấn khởi thi hành ngay. Nạp tăng như thế, chỉ cần một người thôi, cần gì phải kết thành bầy lũ? “Trên giường rộng cứ duỗi chân nằm.” Cổ nhân nói, “Minh minh vô ngộ pháp, ngộ rồi lại mê người. Duỗi chân ra nằm ngủ, không giả cũng không chân. Cho nên trong lòng không có một việc gì cả. Đói thì ăn cơm mệt thì ngủ.”

Tuyết Đậu ý muốn nói rằng nếu như các ông nói vào tắm rồi ngộ được cái lý “diệu xúc tuyên minh” kia theo quan điểm của một vị nạp tăng vô sự như vầy, thì cũng chỉ giống như trong mộng lại nói chuyện mộng mà thôi. Cho nên Tuyết Đậu mới nói, “Trong mộng từng nói ngộ viên thông, đã tắm mước thơm- nhổ vào mặt” Mặc dù nó có vẻ giống như nước thơm nhổ vào mặt.” Mặc dù nó có vẻ giống như nước thơm, thật ra lại chỉ là nước bẩn mới dội trên đầu ông. Có viên thông gì để mà các ông nói đây? Tuyết Đậu nói rằng loại người này đáng bị nhổ thẳng vào mặt. Sư núi tôi thì nói rằng đó là trên đất lại tăng thêm bùn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15035)
Đại chánh tân tu số 0070, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13469)
Đại chánh tân tu số 0068, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15156)
Đại chánh tân tu số 0069, Hán dịch: Pháp Hiền, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16525)
Luận Du Già Sư Địa (Phạn: Yogacàrabhùmi – sàtra), tác giảBồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664)... Nguyên Hiền
(Xem: 13235)
Đại chánh tân tu số 0067, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12597)
Đại chánh tân tu số 0066, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13497)
Đại chánh tân tu số 0065, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13444)
Đại chánh tân tu số 0064, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12784)
Đại chánh tân tu số 0063, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 12079)
Đại chánh tân tu số 0063, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11998)
Đại chánh tân tu số 0062, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12672)
Đại chánh tân tu số 0061, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11503)
Đại chánh tân tu số 0060, Hán dịch: Huệ Giản; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11806)
Đại chánh tân tu số 0059, Hán dịch: Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11177)
Đại chánh tân tu số 0058, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13304)
Đại chánh tân tu số 0057, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13180)
Đại chánh tân tu số 0056, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11611)
Đại chánh tân tu số 0055, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12188)
Đại chánh tân tu số 0054, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12364)
Đại chánh tân tu số 0052, Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11969)
Đại chánh tân tu số 0051, Hán dịch: Khuyết Danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12754)
Đại chánh tân tu số 0050, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12391)
Đại chánh tân tu số 0048, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12215)
Đại chánh tân tu số 0047, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12288)
Đại chánh tân tu số 0046, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12030)
Đại chánh tân tu số 0045, Hán dịch: Pháp Hiền, Thí Quang Lộc Khanh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11960)
Đại chánh tân tu số 0044, Hán dịch: Khuyết Danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11250)
Đại chánh tân tu số 0043, Hán dịch: Huệ Giản; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11395)
Đại chánh tân tu số 0042, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12390)
Đại chánh tân tu số 0041, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12485)
Đại chánh tân tu số 0040, Hán dịch: Ðàm Vô Sấm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12018)
Đại chánh tân tu số 0039, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12982)
Đại chánh tân tu số 0038, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12054)
Đại chánh tân tu số 0037, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12622)
Đại chánh tân tu số 0036, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13035)
Đại chánh tân tu số 0035, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13965)
Đại chánh tân tu số 0034, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12762)
Đại chánh tân tu số 0033, Hán dịch: Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14883)
Đại chánh tân tu số 0032, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11935)
Đại chánh tân tu số 0031, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12196)
Đại chánh tân tu số 0030, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12893)
Đại chánh tân tu số 0029, Hán dịch khuyết danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12781)
Đại chánh tân tu số 0028, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14795)
Đại chánh tân tu số 0027, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12779)
Đại chánh tân tu số 0022, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15413)
Đại chánh tân tu số 0021, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12599)
Đại chánh tân tu số 0020, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13238)
Đại chánh tân tu số 0018, Hán dịch: Pháp Thiên; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14267)
Đại chánh tân tu số 0017, Hán dịch: Chi Pháp Ðộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15570)
Đại chánh tân tu số 0016, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13751)
Đại chánh tân tu số 0015, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13149)
Đại chánh tân tu số 0014, Hán dịch: Sa Môn An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc và Tâm Hạnh
(Xem: 13589)
Kinh Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0006) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12506)
Kinh Phật Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0005) - Bạch Pháp Tổ; Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12095)
Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự (Đại Chánh Tân Tu số 0004) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12921)
Kinh Phật Tỳ Bà Thi (Đại Chánh Tân Tu số 0003) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13014)
Kinh Thất Phật (Đại Chánh Tân Tu số 0002) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13247)
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta, làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin; không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta... HT Thích Hành Trụ dịch
(Xem: 21347)
Thiện Ác Nghiệp Báo (Chư Kinh Yếu Tập) Đại Chánh Tân Tu số 2123 - Nguyên tác: Đạo Thế; Thích Nguyên Chơn dịch
(Xem: 143702)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant