Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Mười Bốn: Một Lời Đúng Của Vân Môn

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15772)
Tắc thứ Mười Bốn: Một Lời Đúng Của Vân Môn

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 2

TẮC THỨ MƯỜI BỐN

MỘT LỜI ĐÚNG CỦA VÂN MÔN

 

CỬ: Có ông tăng hỏi Vân Môn, “Thế nào là giáo lý của cả một thời đại (của Phật)? Vân Môn nói, “Một lời đúng.”

BÌNH: Các người học Thiền, nếu như muốn biết ý nghĩa của Phật tính, cần phải quán thời tiết nhân duyên. Đấy gọi là giáo ngoại biệt truyền, trao riêng tấm ấn, trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật. Đức Phật Thích Ca suốt bốn mươi năm trụ thế, trong ba trăm sáu mươi hội, nói Pháp về đốn tiệm quyền thực. Đó gọi là giáo lý của cả một thời đại. Ông tăng nếu vấn đề ấy lên mà hỏi, “Thế nào là giáo lý của cả một thời đại?” Vân Môn tại sao không giải thích cặn kẽ cho ông tăng mà chỉ nói với ông ta, “Một lời đúng”.Cái mà thông thường chúng ta gọi là một câu gồm đủ ba câu của Vân Môn là: câu bao che trời đất, câu tùy theo sóng, câu cắt đứt các dòng nhánh. Buông ra thu lại, kỳ đặc một cách tự nhiên. Như thể chật đinh bẻ sắt, khiến người ta không biết đường nào mà hiểu ý nghĩa của câu nói hay đoán ra được con người của thầy ta.

Một kho giáo lý chỉ ở nơi ba chữ này, bốn phương tám hướng không có chỗ nào đế các ông dùi đục cả. Người ta thường hiểu lầm mà nói rằng (giáo lý của Đức PHật) chỉ được dạy để thích hợp với một hoàn cảnh nhất định nào đó mà thôi.lại nói, “Sâm la vạn tượng chỉ chổ ẩn nấp của Pháp,” rồi bảo rằng đó chính là ý nghĩa của “một lời đúng”. Có kẻ nói, “Chỉ là nói về một Pháp đó mà thôi.” Song chẳng có gì là đúng cả.Nói như thế không những là không hiểu mà còn xuống địa ngục nhanh như tên bắn. Đâu có biết rằng ý cổ nhân đâu có phải là như thế.

Cho nên mới có câu nói, “ Tan xương nát thịt, cũng chưa đủ trả; hiểu được một câu, vượt qua trăm ức.” Kỳ đặc hết sức. “ Thế nào là giáolý của cả một thời đại?” tại sao lại chỉ nằm ở “một lời đúng”? Nếu như hiểu được câu nói, các ông có thể về nhà ngồi yên. Nếu không hiểu được, xin lắng nghe lời phân xử:

TỤNG: 

Một lời đúng

Quá siêu tuyệt!

Đóng chốt vào tấm sắt không lỗ,

Dưới cây Diêm Phù[18] cười ha ha !

Đêm qua rồng hiển bị gẫy sừng,

Thiều Dương lão nhân[19] được một sừng.

BÌNH: “Một lời đúng quá siêu tuyệt!’ Tuyết Đậu tán thán Vân Môn không xiết. Những lời này đúng là siêu quần xuất loại, không tiền khoánghậu, giống như thể vách đá vạn trượng. Lại cũng giống như một đội quân trăm vạn người, không có chỗ nào đế các ông vào cả, chỉ vì nó cao vút lừng lững quá. Cổ nhân nói, “Nếu như ông muốn vào gần được, đừng dùng câu hỏi ra mà hỏi câu hỏi, câu hỏi nằm trong câu trả lời, câu trả lời là đầu mối của câu hỏi.”Quả là cao vút lừng lững, song thử nói xem chỗ nào cao vút lừng lững ở chỗ nào? Cả thiên hạ chẳng ai làm gì được cả.

Ông tăng này cũng là một tay thông thạo, cho nên mới hỏi như thế được. Vân Môn lại trả lờinhư thế, giống y như đóng chốt vào một tấm sắt không có lỗ. Tuyết Đậu sử dũng văn chương một cách khéo léo hết sức.

Ông tăng này cũng là một tay thông thạo, cho nên mới hỏi như thế được. Vân Môn lại trả lời như thế, giống y như đóng chốt vào một tấm sắt không có lỗ. Tuyết Đậu sử dụng văn chương một cách khéo léo hết sức. “ Dưới cây Diêm Phù cười ha ha!” Kinh Khởi Thế nói, “Ở phương nam của núi Tu Di, có cây lưu ly chiếu sáng Diêm Phù Đề Châu khiến mọi vật đều có màu xanh. Châu này do cây này mà có tên, cho nên mới gọi là Diêm Phù Đề Châu. Cây này cao bảy ngàn do tuần[20], phía dưới là các Diêm Phù đàn cao hai mưoi do tuần. Vi vàng sinh ra ở dưới cây chonên cây này mới có tên là cây Diêm Phù.

Tuyết Đậu tự nói rằng thầy ta cười ha hả dưới cây Diêm Phù. Thử nói xem, thầy ta cười cái gì vậy? Thầy ta cười con rồng biển đêm qua bị gẫy sừng. Tuyết Đậu chỉ biết chiêm ngưỡng mà hết lời tán thán Vân Môn. Khi Vân Môn nói, “Một lời đúng,” thì như thế nào? Giống như thể bẻ gẫy một sừng của con rồng biển vậy. Đến chỗ này, nếu như không có việc như thế thì tại sao thầy ta lại nói như thế?

Tuyết Đậu một lúc tụng tất cả, song đến cuối lại nói, “Đặc biệt thật, đặc biệt thật. Thiều Dương Lão Nhân được một sừng.” Tại sao không nói là được cả hai? Tại sao lại chỉ được một sừng? Thừ nói xem, còn một sứng kia ở đâu?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15052)
Đại chánh tân tu số 0070, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13498)
Đại chánh tân tu số 0068, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15197)
Đại chánh tân tu số 0069, Hán dịch: Pháp Hiền, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16584)
Luận Du Già Sư Địa (Phạn: Yogacàrabhùmi – sàtra), tác giảBồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664)... Nguyên Hiền
(Xem: 13265)
Đại chánh tân tu số 0067, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12626)
Đại chánh tân tu số 0066, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13515)
Đại chánh tân tu số 0065, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13487)
Đại chánh tân tu số 0064, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12808)
Đại chánh tân tu số 0063, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 12103)
Đại chánh tân tu số 0063, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12026)
Đại chánh tân tu số 0062, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12699)
Đại chánh tân tu số 0061, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11548)
Đại chánh tân tu số 0060, Hán dịch: Huệ Giản; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11831)
Đại chánh tân tu số 0059, Hán dịch: Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11198)
Đại chánh tân tu số 0058, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13340)
Đại chánh tân tu số 0057, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13222)
Đại chánh tân tu số 0056, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11629)
Đại chánh tân tu số 0055, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12222)
Đại chánh tân tu số 0054, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12395)
Đại chánh tân tu số 0052, Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12019)
Đại chánh tân tu số 0051, Hán dịch: Khuyết Danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12785)
Đại chánh tân tu số 0050, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12405)
Đại chánh tân tu số 0048, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12251)
Đại chánh tân tu số 0047, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12317)
Đại chánh tân tu số 0046, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12053)
Đại chánh tân tu số 0045, Hán dịch: Pháp Hiền, Thí Quang Lộc Khanh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11970)
Đại chánh tân tu số 0044, Hán dịch: Khuyết Danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11266)
Đại chánh tân tu số 0043, Hán dịch: Huệ Giản; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11407)
Đại chánh tân tu số 0042, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12406)
Đại chánh tân tu số 0041, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12498)
Đại chánh tân tu số 0040, Hán dịch: Ðàm Vô Sấm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12030)
Đại chánh tân tu số 0039, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12998)
Đại chánh tân tu số 0038, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12095)
Đại chánh tân tu số 0037, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12638)
Đại chánh tân tu số 0036, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13050)
Đại chánh tân tu số 0035, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13996)
Đại chánh tân tu số 0034, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12770)
Đại chánh tân tu số 0033, Hán dịch: Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14900)
Đại chánh tân tu số 0032, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11968)
Đại chánh tân tu số 0031, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12207)
Đại chánh tân tu số 0030, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12917)
Đại chánh tân tu số 0029, Hán dịch khuyết danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12795)
Đại chánh tân tu số 0028, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14822)
Đại chánh tân tu số 0027, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12792)
Đại chánh tân tu số 0022, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15438)
Đại chánh tân tu số 0021, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12621)
Đại chánh tân tu số 0020, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13252)
Đại chánh tân tu số 0018, Hán dịch: Pháp Thiên; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14290)
Đại chánh tân tu số 0017, Hán dịch: Chi Pháp Ðộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15606)
Đại chánh tân tu số 0016, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13771)
Đại chánh tân tu số 0015, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13163)
Đại chánh tân tu số 0014, Hán dịch: Sa Môn An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc và Tâm Hạnh
(Xem: 13604)
Kinh Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0006) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12514)
Kinh Phật Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0005) - Bạch Pháp Tổ; Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12109)
Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự (Đại Chánh Tân Tu số 0004) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12937)
Kinh Phật Tỳ Bà Thi (Đại Chánh Tân Tu số 0003) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13031)
Kinh Thất Phật (Đại Chánh Tân Tu số 0002) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13263)
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta, làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin; không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta... HT Thích Hành Trụ dịch
(Xem: 21373)
Thiện Ác Nghiệp Báo (Chư Kinh Yếu Tập) Đại Chánh Tân Tu số 2123 - Nguyên tác: Đạo Thế; Thích Nguyên Chơn dịch
(Xem: 143884)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant