Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Sáu: Một Ngày Đẹp Của Vân Môn

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15600)
Tắc thứ Sáu: Một Ngày Đẹp Của Vân Môn

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 1

TẮC THỨ SÁU

MỘT NGÀY ĐẸP CỦA VÂN MÔN

 

CỬ: Vân Môn Đại Sư nói, “Không hỏi ông về trước ngày mười lăm, sau ngày mười lăm thử nói một câu xem?” Rồi tự trả lời, “Ngày nào cũng là một ngày đẹp.”

BÌNH: Vân Môn Đại Sư thoạt đầu đến tham kiến Mục Châu. Lối dạy của mục Châu tựa như máy quay điện cuốn, thật khó mà bám víu. Bình thường cách đón tiếp người khác của Mục Châu là hễ bất cứ ai vừa bước vào là Mục Châu đã nắm lấy rồi nói, “ Nói, nói” Người kia vừa suy nghĩ, Mục Châu đã đẩy ra ngoài nói. “ Cái dùi xoáy thời nhà Tần!” Lúc Vân Môn đến gặp Mục Châu, lần thứ ba mới dám gõ cửa. Mục Châu hỏi “Ai” Vân Môn nói, “Văn Yển”.Mục Châu vừa hé cửa, Vân Môn đã nhào vào. Mục Châu giữ lại nói, “Nói, nói!” Vân Môn vừa suy nghĩ, bèn bị Mục Châu đẩy ra. Một chân của Vân Môn vẫn còn kẹt trong then cửa, Mục Châu đóng sầm cửa lại, làm gẫy mất chân Vân Môn. Vân Môn đau quá hét lên, song lập tức đại ngộ. Sau này những lời Vân Môn nói ra đều giống với Mục Châu. Sau đó Vân Môn còn ở trong nhà của Thượng Thư Trần Tháo ba năm.

Mục Châu dạy Vân Môn đến Tuyết Phong . Lúc đến nơi, Vân Môn bước ra khỏi tăng chúng hỏi, “ Phật là gì?” Tuyết Phong nói, “Đừng có nói mơ nữa.” Vân Môn bèn cúi lạy. Rồi ở đó ba năm. Một hôm Tuyết Phong hỏi, “Chỗ thấy của ông như thế nào?” Vân Môn nói , “Chỗ thấy của tôi chẳng khác chút nào với chỗ thấy của các bậc thánh thời xưa.”

Hòa Thượng Linh Thụ suốt hai mươi năm không bao giờ bổ nhậm một vị thủ toà nào. Thường nói, “Thủ tòa của tôi mới sinh,” và “ Thủ tòa của tôi đang chăn trâu.” Lại cũng nói, “ Thủ tòa của tôi đang hành cước.” Bỗng nhiên một hôm ra lệnh cho đánh chuông để tiếp vị thủ tòa ngoài cửa. Tăng chúng đều kinh ngạc, song quả nhiên Vân Môn đến thật. Linh Thụ bèn mời Vân Môn vào ở trong phòng dành cho thủ tòa. Thiên hạ gọi Linh Thụ là Tri Thánh Thiền Sư bởi vì thầy ta biết trước các việc trong quá khứ cũng như vị lai.

Một hôm người cai trị Quảng Đông là Lưu Vương sắp hưng binh, định đích thân đến tu viện hỏi Sư xem việc ấy có thuận tiện không. Linh Thụ đã biết trước cho nên thảnh thơi ngồi mà mất. Lưu Vương tức giận nói, “Hòa thượng đau từ bao giờ vậy?” Thị giả đáp, “Thầy chẳng hề đau gì cả, chỉ niêm một cái hộp lại và dặn rằng khi nào vương đến thì trình lên cho vương.” Lưu Vương mở hộp ra thấy một tấm thiệp nói, “ Nhân thiên nhãn mục, chính là vị thủ tòa trong đường.” Lưu Vương hiểu ý, bèn không hưng binh nữa, và mời Vân Môn ra mặt trụ trì ở Linh Thụ. Sau này Sư mới về ở Vân Môn.

Vân Môn khai đường thuyết pháp, có người hỏi, “Trái cây Linh Thụ đã chín chưa?” Vân Môn nói, "Có bao giờ ông nghe nói là chưa chín không?”

Một hôm Lưu Vương mời Sư vào trong điện để kiết hạ, cùng với một vài vị tôn túc khác , để giảng giảithuyết pháp cho các quan viên. Chỉ có mình Sư không nói gì và cũng chẳng có ai gần gũi. Có một vị nội quan làm một bài kệ dán trên điện rằng, “ Tu hành đại trí mới là Thiền, Thiền cần im lặng không huyên hoa. Vạn lời nói khéo đâu phải thật, sao bằng Vân Môn chẳng nói năng.”

Vân Môn bình thường thích nói ba chữ Thiền là “ Quan Sát” (cố), “ Suy Niệm” (giám) và “ Hừ” (di). Lại cũng nói một chữ Thiền. Có ông tăng hỏi, “ Giết cha giết mẹ thì sám hối trước Phật, còn giết Phật giết Tổ thì sám hối trước ai đây? Vân Môn nói, “Lộ”. Lại hỏi, “Chính Pháp Nhãn Tạng là gì?” Vân Môn nói, “Phổ”. Không để cho người ta cơ hội để so đo. Trong các trường hợp thông thường Vân Môn cũng hay mắng người ta. Mỗi khi nói ra một lời, tựa như thể một thanh sắt vậy.

Sau đó dưới trướng của Vân Môn xuất hiện bốn bậc minh triết là Đông Sơn Sơ, Trí Môn Khoan, Đức Sơn Mật, và Hương Lâm Viễn, đều là những bậc đại tông sư. Hương lâm làm thị giả cho Vân Môn suốt mười tám năm trời. Ngày ngày Vân Môn chỉ gọi, “Thị giả!” Lúc Hương Lâm nói, “Dạ”. Vân Môn lại nói, “Cái gì đây?” Cứ như thế suốt mười tám năm đến một ngày kia Hương Lâm mới ngộ. Vân Môn nói, “ Từ rày trở đi tôi sẽ không gọi ông nữa.” Bình thường lúc dạy người khác Vân Môn thường dùng phương pháp của Mục Châu. Có điều hơi khó bám víu, bởi vì Vân Môn có búa liềm để nhổ đinh bạt chốt. Tuyết Đậu nói, “ Tôi thích các phương pháp mới mẻ của Thiều Dương Lão Nhân, thầy ta suốt đời chỉ nhổ đinh bạt chốt cho thiên hạ.

Vân Môn đưa ra một vấn đề để dạy chúng, “Không hỏi ông về trước ngày mười lăm, sau ngày mười lăm thử nói một câu xem?” Sư cắt đoạn hết các sai biệt chi li chẳng thông phàm thánh. Rồi lại tự trả lời, “ Ngày nào cũng là một ngày đẹp.” Trước ngày mười lăm,” lời này cũng cắt đứt hết các sai biệt chi li. Có điều Vân Môn không nói rằng sau ngày mười lăm là ngày mười sáu. Người đời sau cứ tha hồ giải thích, song có gì là nhằm nhò? Vân Môn lập tông phong, đương nhiên phải có chỗ vì người. Vừa dạy xong, lại tự đáp cho mọi người, “Ngày nào cũng là một ngày đẹp.” Lời này thông quá kim cổ, từ trước đến sau trong một lúc đoán định cả.

Sư núi tôi nói năng như vậy, cũng là dựa theo ngôn ngữ mà hiểu. Giết người không bằng tự giết mình. Vừa mới lập nên nguyên tắc là đã rơi vào hố sâu. Trong một câu của Vân Môn đã gom đủ cả ba câu. Đó chính là tông chỉ gia phong của sư. Bất cứ một lời dạy nào của Vân Môn cũng phải được truy về nguồn. Nếu không như thế thì chỉ võ đoán mà thôi. Việc này không cần đến nhiều luận thuyết như thế. Nếu như hiểu thấu đương nhiên lạp tức thấy ngay ý chỉ của cổ nhân. Hãy xem Tuyết Đậu bày vẽ dây dưa:

TỤNG:

Bỏ đi một,

Nêu lên bẩy.

Bốn phương trên dưới chẳng gì bằng,

Lững thững đạp dứt tiếng nước trong.

Thoáng nhìn thấy rõ vết chim bay,

Cỏ rậm rạp,

Khói bồng bềnh.

Trên vách Không Sinh[16] hoa tơi tả,

Búng thay, thương thay “ thuấn nhã đa.”[17]

Đừng động đậy,

Động đậy ta cho ba chục gậy!

BÌNH: Tuyết Đậu tụng cổ bao giờ cũng được như vậy.Trước tiên bao giờ cũng lấy Kim Cương Bảo Kiếm múa một hồi, sau đó mới để lộ một chút phong qui. Tuy như vậy, song rốt cuộc không thể hiểu theo lối nhị nguyên được.

“Bỏ đi một, nêu lên bảy.” Người ta thường hay hiểu đạo theo con số, nói rằng, “Bỏ đi một là việc của trước ngày mười lăm.” Tuyết Đậu đột nhiên hạ bút viết hai câu đã ấn phá tất cả, song lại để lộ một chút cho người ta thấy. “ Bỏ đi một, nêu lên bảy”. Điều kỵ nhất là đừng dựa vào ngôn ngữ mà so đo. Tại sao vậy? Bánh khô làm sao có chút nước? Thiên hà phần nhiều rơi vào ý thức. Cần phải hiểu ý nghĩa của vấn đề trước khi ngôn ngữ được thốt ra. Lúc ấy đại dụng hiện tiền tự nhiên là mình sẽ thấy được.

Đó chính là lý doThích Ca Mâu Ni sau khi thành đạo ở nước Ma Kiệt Đà đã bỏ ra hăm mốt ngày để tư duy về vấn đề này. “Các pháp tịch diệt tướng, không đạt bằng ngôn ngữ. Ta không nên thuyết pháp, mau nhập đạt bằng ngôn ngữ. Ta không nên thuyết pháp, mau nhập Niết Bàn ngay.” Đến chỗ đó rồi thì ngay cả Đức Thích Ca cũng không có chỗ để mở miệng. Song nhờ ở phương tiện thiện xảo, sau khi thuyết pháp cho năm vị tỳ kheo xong, ngài đã đến ba trăm sáu mươi chúng hội, giải thích giáo lý cho người thời ấy. Tất cả những điều này chỉ là phương tiện, cho nên ngài mới cởi bỏ y phục rách rưới của người hành giả. Bất đắc dĩ mới phải noi theo ý nghĩa công ước của chỗ thiển cận để mà dẫn dụ các ông. Nếu như bảo ngay một lúc nói lên sự thật, hẳn là đã chẳng có đến một người, hay thậm chí nửa người, hiểu nổi.

Thử nói xem thế nào là câu cứu cánh? Đến đây Tuyết Đậu để lộ ra một chút ý nghĩa cho người khác thấy. Các ông chỉ cần ở trên đừng thấy có chư Phật, ở dưới đừng thấy có chúng sinh, bên ngoài chẳng thấy có sơn hà đại địa, bên trong chẳng thấy có kiến văn giác tri, lúc ấy ông sẽ giống như người chết đi sống lại. Với tốt xấu sẽ chẳng còn thấy chúng là khác nhau nữa. Sau đó các ông tha hồ ung dung mà không mất quân bằng.Lúc ấy mới hiểu được lời của Tuyết Đậu rằng, “ Bỏ đi một, nêu lên bẩy. Bốn phương trên dưới chẳng gì bằng.” Nếu như hiểu thấu được câu tụng này, thì quả thật là bốn phương trên dưới chẳng có gì so nổi. Sâm la vạn tượng, cây cỏ thú người, mọi vật đều phản ảnh gia phong của mình mà thôi. Cho nên mới có lời nói, “Ở trong vạn tượng riêng lộ thân, chỉ kẻ tự tin mới là gan. Năm xưa lầm lẫn lang thang kiếm, ngày nay nhìn thấy lửa trong băng.” Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn.” Đa số người ta chỉ theo đuổi ngọn mà quên mất gốc. Phải đạt được cái mốc một cách chính đáng, lúc ấy tự nhiên gió thổi cỏ rạp, nước tới sông dâng. “Lững thững đạp dứt tiếng nước trong.” Lúc ấy dù đi lững thững cũng có thể đạp dứt tiếng nước cả. “Thoáng nhìn thấy rõ vết chim bay.” Đưa mắt thoáng nhìn, dù cho đó là vết chim bay, cũng thấy rõ ràng như thể có vẽ ra. Đến mức độ này rồi thì “ thổi tắt ngọn lửa dưới vạc dầu, rừng kiếm núi đao đều gãy tan,” chẳng có gì là khó.

Đến chỗ này rồi, Tuyết Đậulòng từ bi, sợ thiên hạ lại vướng vào cái vòng dững dưng, cho nên lại nói tiếp, “ Cỏ rậm rạp, khói bồng bềnh. Thử nói xem đây là cảnh giới của ai? Có thể gọi là ngày nào cũng là một ngày đẹp đưọc không? May thay mà điều này chẳng có gì là nhằm nhò. Đến lúc “ lững thững đạp dứt tiếng nước trong” cũng không phải, mà “ thoáng nhìn thấy rõ vết chim bay” cũng không phải, mà “ thoáng nhìn thấy rõ vết chim bay” cũng không phải; “ cỏ rậm rạp” cũng không phải, “khói bồng bềnh” cũng không phải. Chẳng có cái gì là phải cả. Lúc ấy chính là “ trên vách không sinh hoa tơi tả” Song cũng còn cần phải qua phía bên kia mới được. Như Tư Bồ Đề tránh nơi ồn ào tìm chốn yên tĩnh, vào trong hang tĩnh tọa, chu thiên rải hoa xuống tán thán. Tu Bồ Đề hỏi, “Ai vậy?” Một trong chư thiên nói, “Tôi là trời Đế Thích.” Tu Bồ Đề Hỏi, “Ngài tán thán cái gì vậy?” Đế Thích nói, “Tôi trọng tôn giả khéo giảng Bát Nhã Ba La Mật.” Tu Bồ Đề nói, “Tôi chưa từng nói một chữ nào về Bát Nhã, tại sao ngài tán thán?” Đế Thích nói, “Tôn giả không có nói, tôi không có nghe. Không nói không nghe, đó chính là Bát Nhã chân thật. Rồi lại làm mặt đất rung chuyển, rải hoa xuống nữa.

Tuyết Đậu cũng có một bài tụng để nói về vấn đề này, “Mưa tạnh mây tan trời nửa sáng, mấy đỉnh chót vót như bích họa. Không Sinh chẳng biết ngồi trông hốc,khiến cho đất động hoa trời rơi.” Đế Thích đã làm cho mặt đất rung chuyển và hoa trời rơi xuống. đến mức đó rồi biết ẩn trốn ở đâu đây? Tuyết Đậu lại nói, “ Ta sợ có trốn cũng không được, cõi ngoài trời đất đầy ăm ắp. Mơ mơ hồ hồ bao giờ dứt, tám phương gió mát mơn tà áo.” Dù cho ông có sách sẽ trơn tru, không một chút lỗi lầm âu lo, cũng vẫn chưa phải là chỗ cùng cực. Rốt cuộc thì thế nào mới là cùng cực. “Búng tay thương thay thuấn nhã đa.” “Thuấn nhã đa” là chữ Phạn có nghĩa là tinh thần của hư không, lấy hư không làm thể, không có thân thể hữu hình để xúc chạm. Lúc Phật quang chiếu mới hiện rõ thân hữu hình. Lúc nào ông đạt được “thuấn nhã đa” RỒI, Tuyết Đậu sẽ búng tay mà thở than. Tuyết Đậu lại nói, “Đừng động đậy!” Động đậy thì như thế nào? Giống như giữa thanh thiên bạch nhật, mở mắt mà ngủ.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15005)
Đại chánh tân tu số 0070, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13444)
Đại chánh tân tu số 0068, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15128)
Đại chánh tân tu số 0069, Hán dịch: Pháp Hiền, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16493)
Luận Du Già Sư Địa (Phạn: Yogacàrabhùmi – sàtra), tác giảBồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664)... Nguyên Hiền
(Xem: 13215)
Đại chánh tân tu số 0067, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12584)
Đại chánh tân tu số 0066, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13461)
Đại chánh tân tu số 0065, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13411)
Đại chánh tân tu số 0064, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12759)
Đại chánh tân tu số 0063, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 12075)
Đại chánh tân tu số 0063, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11974)
Đại chánh tân tu số 0062, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12647)
Đại chánh tân tu số 0061, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11474)
Đại chánh tân tu số 0060, Hán dịch: Huệ Giản; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11782)
Đại chánh tân tu số 0059, Hán dịch: Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11149)
Đại chánh tân tu số 0058, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13279)
Đại chánh tân tu số 0057, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13162)
Đại chánh tân tu số 0056, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11588)
Đại chánh tân tu số 0055, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12168)
Đại chánh tân tu số 0054, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12357)
Đại chánh tân tu số 0052, Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11950)
Đại chánh tân tu số 0051, Hán dịch: Khuyết Danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12747)
Đại chánh tân tu số 0050, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12367)
Đại chánh tân tu số 0048, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12192)
Đại chánh tân tu số 0047, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12261)
Đại chánh tân tu số 0046, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12010)
Đại chánh tân tu số 0045, Hán dịch: Pháp Hiền, Thí Quang Lộc Khanh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11954)
Đại chánh tân tu số 0044, Hán dịch: Khuyết Danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11222)
Đại chánh tân tu số 0043, Hán dịch: Huệ Giản; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11370)
Đại chánh tân tu số 0042, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12375)
Đại chánh tân tu số 0041, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12468)
Đại chánh tân tu số 0040, Hán dịch: Ðàm Vô Sấm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11994)
Đại chánh tân tu số 0039, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12960)
Đại chánh tân tu số 0038, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12042)
Đại chánh tân tu số 0037, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12601)
Đại chánh tân tu số 0036, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13007)
Đại chánh tân tu số 0035, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13944)
Đại chánh tân tu số 0034, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12736)
Đại chánh tân tu số 0033, Hán dịch: Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14867)
Đại chánh tân tu số 0032, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11924)
Đại chánh tân tu số 0031, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12186)
Đại chánh tân tu số 0030, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12883)
Đại chánh tân tu số 0029, Hán dịch khuyết danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12772)
Đại chánh tân tu số 0028, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14766)
Đại chánh tân tu số 0027, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12746)
Đại chánh tân tu số 0022, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15390)
Đại chánh tân tu số 0021, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12575)
Đại chánh tân tu số 0020, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13215)
Đại chánh tân tu số 0018, Hán dịch: Pháp Thiên; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14239)
Đại chánh tân tu số 0017, Hán dịch: Chi Pháp Ðộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15547)
Đại chánh tân tu số 0016, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13746)
Đại chánh tân tu số 0015, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13137)
Đại chánh tân tu số 0014, Hán dịch: Sa Môn An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc và Tâm Hạnh
(Xem: 13568)
Kinh Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0006) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12482)
Kinh Phật Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0005) - Bạch Pháp Tổ; Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12087)
Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự (Đại Chánh Tân Tu số 0004) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12896)
Kinh Phật Tỳ Bà Thi (Đại Chánh Tân Tu số 0003) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 12981)
Kinh Thất Phật (Đại Chánh Tân Tu số 0002) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13208)
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta, làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin; không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta... HT Thích Hành Trụ dịch
(Xem: 21333)
Thiện Ác Nghiệp Báo (Chư Kinh Yếu Tập) Đại Chánh Tân Tu số 2123 - Nguyên tác: Đạo Thế; Thích Nguyên Chơn dịch
(Xem: 143644)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant