Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Ba Mươi Chín: Kim Mao Sư Tử Của Vân Môn

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15758)
Tắc thứ Ba Mươi Chín: Kim Mao Sư Tử Của Vân Môn

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 4

TẮC THỨ BA MƯƠI CHÍN

KIM MAO SƯ TỬ CỦA VÂN MÔN

 

THÙY: Kẻ thụ dụng được trên đường, giống như con cọp trong núi, kẻ trôi lăn trong thế đế[16], giống như con khỉ trong chuồng. Muốn hiểu được ý nghĩa của Phật tính, phải biết quán thời tiết nhân duyên. Muốn nung vàng ròng đã được luyện trăm lần, cần phải có lò rèn của tay chuyên môn. Thử nói xem, lúc đại dụng hiện tiền, phải lấy gì ra để thử đây?

CỬ:Có ông tang hỏi Vân Môn, “Thế nào là thanh tịnh Pháp Thân?” Vân Môn nói, “Một dậu hoa.” Ông tăng nói, “Nếu cư thế thì như thế nào?” Vân Môn nói, “Kim Mao Sư Tử.”

BÌNH: Các ông có hiểu chỗ hỏi của ông tăng với chỗ trả lời của Vân Môn chăng? Nếu hiểu được, thì hai miệng giống nhau chẳng có một lưỡi. Nếu không hiểu, khó tránh khỏi (là những kẻ có) đầu óc mít đặc.

Có ông tăng hỏi Huyền Sa, “Thế nào là thanh tịnh Pháp Thân?” Huyền Sa nói, “Mủ chảy từng giọt.” Thầy ta đúng là có mắt kim cương, các ông thử phân biện xem sao. Vân Môn không giống như những người khác, có lúc trấn định như vách đá vạn trượng, không có chỗ để các ông lân la đến gần. Có lúc mở một con đường ra, đồng sinh đồng tử với các ông.

Cái lưỡi của Vân Môn hết sứctinh vi, có người bảo thấy ta trả lời một cách bóng gió; song nếu các ông hiểu như thế, thử nói xem Vân Môn rơi vào chỗ nào? Đây là việc ở trong nhà, đừng có so đo ở ngoài. Cho nên Bách Trượng mới nói, “ Sâm la vạn tượng , tất cả ngôn ngữ, phải quay về nơi chính mình, và phải khiến chúng quay về một cách gọn gang.” Thầy ta nói ở nơi sống động, nếu như các ông toan so đo suy nghĩ, lập tức rơi vào câu phụ thứ. Vĩnh Gia nói, “Ngộ Pháp Thân rồi không một vật, Tự tính bổn nguyên là chân Phật.”

Vân Môn thử thách ông tăng này, ông ta cũng là người trong nhà của Vân Môn, và cũng là người trong nhà của Vân Môn, và cũng là người đã tham học lâu năm với Vân Môn. Ông ta biết rõ những việc trong nhà của Vân Môn cho nên mới lại hỏi, “Đã như thế rồi thì như thế nào?” Vân Môn nói, “ Kim Mao Sư Tử.” Thử nói xem, như thế là đồng ý hay là không đồng ý với ông tăng? Là khen hay là chê ông ta? Nham Đầu nói, “Nếu như luận về việc chiến, thì mỗi người đều đứng ở chỗ quan yếu.” Lại nói, “ Thầy tat ham câu sống, không tham câu chết. Nếu như hiểu được câu sống, mãi mãi sẽ không bao giờ quên.Còn nếu chỉ hiểu câu chết, thì chẳng cứu ngay được cả chính mình.”

Có ông tăng hỏi Vân Môn, “Có phải Phật pháp giống như mặt trăng trong nước không?” Vân Môn nói, “Không có lối đi xuyên vào sóng xanh.” Ông tăng lại hỏi, “Thế hòa thượng từ đâu mà đắc được?” Vân Môn nói, Câu hỏi thứ hai này từ đâu đến vậy?” Ông tăng hỏi, “Lúc như vầy đây thì như thế nào?” Vân Môn nói, “Chập chùng ngàn đường núi.”

Các ông phải biết rằng việc này không thuộc nơi ngôn ngữ văn tự, giống như đá lửa điện chớp, dù cho có nắm được hay không cũng khó tránh khỏi táng thân thất mạng. Tuyết Đậu cũng là người trong ấy cho nên mới tụng ngay rằng:

TỤNG:

Một dậu hoa,

Đừng ngờ nghệch.

Đầu tại kim hề không tái bản,

Chỉ như thế,

Quá vô lý.

Kim Mao Sư Tử mọi người nhìn.

BÌNH: Tuyết Đậu ngồi vào chiếu đánh khúc đàn huyền diệu. Từng câu một phán đoán. Bài tụng này không khác với cách niêm cơ. “Một dậu hoa”, rồi thầy ta lại nói, “Đừng ngờ nghệch.” Ai cũng bảo rằng Vân Môn trả lời một cách bóng gió, họ đều lấy thiên kiến ra mà hiểu vấn đề. Cho nên Tuyết Đậu mới dùng vốn liếng của mình ra mà nói, “Đừng ngờ nghệch.” Song ý của Vân Môn đâu có ở dậu hoa, cho nên Tuyết Đậu mới nói, “Đậu tại kim kề không tại bàn (cân).” Câu này mới lậu đậu làm sao. Giống như đầu ở kim chứ không ở bàn cân. Cổ nhân đến chỗ này rồi vẫn còn hết sức từ bi, cho nên vẫn phân minh nói với các ông rằng, “Không phải ở đây, mà ở đàng kia.” Song thử nói xem “ở đằng kia” là ở đâu? Đây là tụng xong câu thứ nhất. Sau đó là tụng lời ông tăng nói rằng, “Đã như thế rồi thì như thế nào?” Tuyết Đậu nói ông tăng này vô lý quá. Thử nói xem, là gặp nơi sáng hay chỗ tối? Nói như thế là vì hiểu hay là vì không hiểu? “ Kim Mao Sư Tử mọi người nhìn.” Có thấy Kim Mao Sư Tử không? Đồ mù!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15052)
Đại chánh tân tu số 0070, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13498)
Đại chánh tân tu số 0068, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15194)
Đại chánh tân tu số 0069, Hán dịch: Pháp Hiền, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16581)
Luận Du Già Sư Địa (Phạn: Yogacàrabhùmi – sàtra), tác giảBồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664)... Nguyên Hiền
(Xem: 13264)
Đại chánh tân tu số 0067, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12626)
Đại chánh tân tu số 0066, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13515)
Đại chánh tân tu số 0065, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13487)
Đại chánh tân tu số 0064, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12807)
Đại chánh tân tu số 0063, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 12101)
Đại chánh tân tu số 0063, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12025)
Đại chánh tân tu số 0062, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12699)
Đại chánh tân tu số 0061, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11541)
Đại chánh tân tu số 0060, Hán dịch: Huệ Giản; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11830)
Đại chánh tân tu số 0059, Hán dịch: Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11194)
Đại chánh tân tu số 0058, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13340)
Đại chánh tân tu số 0057, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13221)
Đại chánh tân tu số 0056, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11629)
Đại chánh tân tu số 0055, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12222)
Đại chánh tân tu số 0054, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12391)
Đại chánh tân tu số 0052, Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12016)
Đại chánh tân tu số 0051, Hán dịch: Khuyết Danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12782)
Đại chánh tân tu số 0050, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12405)
Đại chánh tân tu số 0048, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12251)
Đại chánh tân tu số 0047, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12316)
Đại chánh tân tu số 0046, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12053)
Đại chánh tân tu số 0045, Hán dịch: Pháp Hiền, Thí Quang Lộc Khanh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11969)
Đại chánh tân tu số 0044, Hán dịch: Khuyết Danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11266)
Đại chánh tân tu số 0043, Hán dịch: Huệ Giản; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11407)
Đại chánh tân tu số 0042, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12406)
Đại chánh tân tu số 0041, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12498)
Đại chánh tân tu số 0040, Hán dịch: Ðàm Vô Sấm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12028)
Đại chánh tân tu số 0039, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12998)
Đại chánh tân tu số 0038, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12095)
Đại chánh tân tu số 0037, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12635)
Đại chánh tân tu số 0036, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13050)
Đại chánh tân tu số 0035, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13995)
Đại chánh tân tu số 0034, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12769)
Đại chánh tân tu số 0033, Hán dịch: Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14900)
Đại chánh tân tu số 0032, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11967)
Đại chánh tân tu số 0031, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12207)
Đại chánh tân tu số 0030, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12916)
Đại chánh tân tu số 0029, Hán dịch khuyết danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12794)
Đại chánh tân tu số 0028, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14819)
Đại chánh tân tu số 0027, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12791)
Đại chánh tân tu số 0022, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15437)
Đại chánh tân tu số 0021, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12620)
Đại chánh tân tu số 0020, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13251)
Đại chánh tân tu số 0018, Hán dịch: Pháp Thiên; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14290)
Đại chánh tân tu số 0017, Hán dịch: Chi Pháp Ðộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15606)
Đại chánh tân tu số 0016, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13770)
Đại chánh tân tu số 0015, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13163)
Đại chánh tân tu số 0014, Hán dịch: Sa Môn An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc và Tâm Hạnh
(Xem: 13603)
Kinh Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0006) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12513)
Kinh Phật Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0005) - Bạch Pháp Tổ; Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12108)
Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự (Đại Chánh Tân Tu số 0004) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12937)
Kinh Phật Tỳ Bà Thi (Đại Chánh Tân Tu số 0003) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13031)
Kinh Thất Phật (Đại Chánh Tân Tu số 0002) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13261)
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta, làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin; không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta... HT Thích Hành Trụ dịch
(Xem: 21373)
Thiện Ác Nghiệp Báo (Chư Kinh Yếu Tập) Đại Chánh Tân Tu số 2123 - Nguyên tác: Đạo Thế; Thích Nguyên Chơn dịch
(Xem: 143876)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant